Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2010

Đề thi học sinh giỏi môn Toán năm 2010 và lời giải

Tuyển tập đề thi và lời giải của các đề thi học sinh giỏi môn Toán cấp Tỉnh năm 2010.
Tác giả: Trần Nam Dũng và các cộng sự
Click vào đây để tải về: Download
Xem thêm: Đề thi học sinh giỏi môn Toán năm 2009 của các 21 tỉnh thành

Bất đẳng thức trong Xác suất thống kê

Một chuyên đề về bất đẳng thức trong Xác suất thống kê: Inequalities for Random Variables Over a Finite Interval. Sách dày 292 trang, do một số tác giả ở Đại học Victoria, Úc viết.
Download ở đây: Download

Học trò đặt "biệt danh khủng" cho thầy cô

 Ngoài thầy T. "sầu đời", cô H. "cục bột", trường học của em tôi còn có thầy T. “gù”;  thầy H. “đầu súp lơ”;  cô L. “mũi hếch”; cô V. “lùn”; thầy C.“35”… và vô số những biệt danh "khủng" khác. 

a
Chuyện học trò đặt biệt danh cho thầy cô giáo thì thời nào cũng có. Ảnh minh họa
Có lần, khi đi ngang qua phòng cậu em trai (đang học lớp 10 một trường ở Đồng Nai), tôi vô cùng ngạc nhiên khi tình cờ nghe được đoạn đối thoại của nó với bạn học: “Ê mày! môn của thầy T. “sầu đời” có bài tập không?..hả?...năm bài lận hả?..đúng là ông T. “sầu đời” ác ghê. Thế còn môn của cô H. “cục bột” thì sao?...”.
Chờ khi chấm dứt câu chuyện, tôi bước vào và vặn hỏi ngay: “Sao em lại gọi thầy cô bằng những biệt danh vô lễ như thế?”. Cu cậu giải thích: “Đấy đều là những biệt danh mà những lớp khác đã đặt, tụi em chỉ học theo thôi”…

Thì ra, không chỉ có thầy T. và cô H. bị đặt biệt danh, mà còn rất nhiều thầy cô khác cũng không "thoát" khỏi.

Em tôi hồn nhiên kể, trường học của nó còn có thầy T. “gù”; thầy H. “đầu súp lơ”; cô L. “mũi hếch”; cô V. “lùn”; thầy C.“35”… và vô số những biệt danh "khủng" khác.

Chưa hết, trong một lần đi xe khách về quê, tôi ngạc nhiên khi nghe hai cô nữ sinh (lớp 10 ở TP. HCM) bàn tán về thầy cô: “Mày nghe chuyện thầy “Dương Quá” thích “Cô Long” chưa? Chuyện tình đẹp như trong phim vậy…nhưng mà nghe đồn bà “Cầu Thiên Xích” ra sức ngăn cản  đó”…

Tôi  hỏi: “Sao tụi em đặt biệt danh cho thầy cô trùng hợp quá vậy?”, hai cô bé trả lời: “Dương Quá" là biệt danh của thầy Dương, “Cô Long” thì là tên thật, còn “Cầu Thiên Xích” là tên của cô Thiên… ai ngờ trùng hợp với chuyện tình của các nhân vật trong phim “Thần điêu đại hiệp” nên bọn em đặt biệt danh như vậy...

Có rất nhiều cách mà học trò ngày nay đặt biệt danh cho thầy cô: có thể là dựa vào tính cách, vóc dáng, của thầy cô; có thể biến tấu từ tên thật; cũng có khi chỉ vì không thích thầy cô đó mà đám học sinh không ngần ngại đặt ngay một biệt danh ác ý…

Ngày còn đi học, chúng tôi cũng thường đặt biệt danh cho thầy cô. Nhưng đó chỉ là những biệt danh rất dễ thương và gần gũi như: thầy P. “bác học” (vì thầy có vầng trán rộng và cặp kính dày); cô P. Kathy (vì cô rất ít khi cười)…

Những biệt danh như thế tạo cho thầy cô cảm giác vui vẻ vì được học sinh yêu mến, quan tâm, kính trọng.

Tôi nghĩ, việc đặt biệt danh cho thầy cô không xấu, trong một số trường hợp còn làm cho mối quan hệ giữa thầy và trò trở nên thân thiết, gắn bó hơn. Trái lại, những biệt danh ác ý, vô lễ ngoài việc làm tổn thương thầy cô còn làm “ô nhiễm” môi trường học đường. 
(Theo Vietnamnet, Xem thêm cách học trò "chém" thầy cô giáo )

Geoplan-Geospace 2009 Setup

Bài viết này giới thiệu về phần mềm Geoplan-Geospace 2009. Đây là bản cài đặt Geoplan-Geospace 2009 với 4 ngôn ngữ: Anh, Pháp, Đức, Ý. Bạn nào quan tâm có thể tải tại địa chỉ sau: http://www.mediafire.com/?ryuerejjuyn (3.21 MB)
Còn đây là hướng dẫn sử dụng tiếng Việt: http://www.mediafire.com/?ymojttunmnj (8.11 MB)
 Người đăng: Lê Văn Bình

Thứ Năm, 28 tháng 1, 2010

Học bổng Fulbright năm 2011

Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam vừa thông báo Chương trình Học bổng Fulbright lấy bằng Tiến sỹ về Khoa học Công nghệ năm 2011. Người được cấp học bổng sẽ được hỗ trợ tìm trường và hỗ trợ tài chính trong suốt ba năm học.
Hỗ trợ đó bao gồm: học phí, sinh hoạt phí hàng tháng, trợ cấp mua sách vở/tài liệu, trợ cấp nghiên cứu và tham gia các cuộc hội thảo, bảo hiểm y tế và bảo hiểm sức khỏe, vé máy bay khứ hồi từ Việt Nam tới Hoa Kỳ, đặc biệt là các khoản trợ cấp để tham gia những hoạt động tăng cường trao đổi văn hoá và giáo dục.
Với nguồn tài trợ từ Vụ các vấn đề Văn Hóa và Giáo dục thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, chương trình này được thiết kế để trở thành một trong số những chương trình học bổng danh giá nhất về khoa học và công nghệ trên thế giới. Đây là chương trình cạnh tranh toàn cầu và mỗi năm khoảng 45 suất học bổng sẽ được trao cho những ứng viên chứng tỏ được khả năng đặc biệt và tư duy đổi mới trong lĩnh vực khoa học.
Chương trình Fulbright Việt Nam được đề cử tối đa là 3 ứng viên cho chương trình này. Người được cấp học bổng sẽ theo học chương trình Tiến sỹ tại các trường đại học hàng đầu của Hoa Kỳ bắt đầu vào năm học 2011-2012.
Ngành học được khuyến khích bao gồm: Hàng không học và Thiên văn học, Kỹ thuật hàng không, Khoa học thiên văn, Nông nghiệp Khoa học về các hành tinh, Sinh học, Kỹ thuật y sinh, Hoá học, Khoa học máy tính, Kỹ thuật máy tính, Kỹ thuật (điện, hoá, dân dụng, cơ khí, đại dương và dầu khí), Khoa học môi trường, Kỹ thuật môi trường, Địa chất, Khoa học về trái đất và khí quyển, Khoa học thông tin, Kỹ thuật thông tin, Khoa học vật liệu, Kỹ thuật vật liệu, Toán học, Khoa học về thần kinh, Khoa học về não bộ và nhận thức, Đại dương học, Vật lý, Y tế công, Năng lượng.
Điều kiện tham gia chương trình: Là công dân Việt Nam, phải có bằng tốt nghiệp đại học tính đến ngày 1 tháng 8 năm 2011; có điểm TOEFL iBT tối thiểu là 92 điểm hoặc IELTS 7.0.
Để tham gia chương trình, ứng viên phải nộp một bộ hồ sơ dự tuyển đầy đủ bao gồm: Mẫu đơn xin học bổng trực tuyến, ba thư giới thiệu, bản sao có công chứng các loại bằng cấp và bảng điểm từ đại học trở lên (kèm bản dịch tiếng Anh có công chứng), chứng chỉ TOEFL hoặc IELTS, bản chữ ký mẫu.
Hạn chót nộp hồ sơ là 5 giờ chiều, ngày 20/5/2010. Hồ sơ gửi theo địa chỉ: Chương trình Học bổng Tiến sỹ KHCN Fulbright, Đại Sứ Quán Hoa Kỳ, số 7 Láng Hạ, Hà Nội.
Thông tin chi tiết có thể xem tại trang web: http://vietnam.usembassy.gov/fulbright_stphd.html
Theo Dân Trí

PS: Đồng ơi, đăng kí đi Mỹ cho rồi!

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2010

Khi nào Einstein thế hệ kế tục sẽ xuất hiện?

Các bước đột phá lớn trong khoa học là lĩnh vực của các cá nhân chứ không phải của viện nghiên cứu. Galileo, Copernicus, Edison và Einstein đã phải lao động trong phòng thí nghiệm riêng hay suy tư về vũ trụ trong các nghiên cứu cá nhân. Nhưng trong những thập kỷ gần đây, đặc biệt là từ sau thành công phóng vệ tinh Sputnik của Xô Viết vào năm 1957, xu hướng đã tạo ra nhiều viện nghiên cứu lớn thúc đẩy sự hợp tác và những khoản tài trợ lớn.

Hiện nay đạt được bước tiến khoa học lớn trở nên khó khăn hơn. Một nghiên cứu của các nhà khoa học giành được giải thưởng Nobel năm 2005 phát hiện thấy tích lũy kiến thức qua thời gian buộc các khối óc lớn lao động nhiều hơn trước khi họ đạt được đột phá. Kỷ nguyên mà các nhà tư tưởng tạo ra phát kiến vĩ đại đã tăng 6 năm trong thế kỷ 20. 

Đừng vội đặt ra ngoài các thiên tài riêng lẻ lúc này

Sự cân bằng giữa phương pháp cá nhân và phương pháp của viện nghiên cứu là một ý kiến tốt nhất, theo giả thuyết của kỹ sư Adrian Bejan thuộc Đại học Duke – người cho rằng các viện nghiên cứu được lợi ích nhiều nhất từ sự đồng tồn tại của các nhóm lớn tự tổ chức và các nhà khoa học đơn lẻ đưa ra những sáng kiến vĩ đại.

Bejan viết trên số ra tháng 12 tờ International Journal of Design & Nature and Ecodynamics rằng: “Lịch sử thành tựu khoa học được đánh dấu bởi các nhà nghiên cứu riêng lẻ, từ Archimedes đến Newton và Darwin. Các nhà tư tưởng độc lập rất có ảnh hưởng xuyên suốt tiến trình lịch sử bởi bản thân khoa học tự nhiên đã có lợi đối với trí óc của họ cũng như sự phồn vinh của xã hội. Mặc dù xu hướng thiên về các nhóm nghiên cứu lớn, cá nhân vẫn luôn hưng thịnh”.

Thế nhưng quan niệm về thiên tài đơn lẻ được đánh giá hơi quá mức, ngay cả các thiên tài cũng xác nhận điều này.

Như Isaac Newton chẳng hạn, ông nói rằng ông không có thành tựu gì trong nghiên cứu của mình, ví dụ như quy tắc chuyển động và trọng trường đó là bằng cách “đứng trên vai những người khổng lồ”.

Áp lực Xô Viết

Tiến trình nghiên cứu hiện đại thay đổi bất ngờ sau ngày 4 tháng 10 năm 1957, khi Xô Viết cũ trở thành quốc gia đầu tiên đưa tàu Sputnik vào vũ trụ. Sự kiện đã châm ngòi cho quá trình phát triển ngoạn mục trong nguồn tài trợ Hoa Kỳ cho các nhóm nghiên cứu lớn thuộc viện nghiên cứu. Mô hình này được các viện nghiên cứu nhỏ hơn áp dụng, họ cũng đồng thời hình thành nhóm nghiên cứu lớn hơn để thu hút tài trợ.

Tuy nhiên, các nhà tư tưởng lớn độc lập không hề biến mất. Bejan cho rằng họ vẫn tiếp tục phát triển. Ông nghĩ rằng giả thuyết xây dựng của ông ra đời vào năm 1996 có thể giải thích lý do.

Khi nào Einstein thế hệ kế tục sẽ xuất hiện ?

Giả thuyết công bố rằng cái gọi là hệ thống chảy tiến hóa để cân bằng và tối thiểu hóa tính không hoàn hảo, làm giảm xích mích và các hình thức kháng cự khác sao cho lượng năng lượng sử dụng thất thoát ít nhất. Các ví dụ trong tự nhiên bao gồm các dòng sông, con suối bồi đắp nên đồng bằng hoặc các đường khí phức tạp trong lá phổi.

Trong nghiên cứu do con người tiến hành, Bejan nhận thấy có hai dòng chảy chính: dòng ý tưởng dưới dạng phát hiện khoa học, và dòng hỗ trợ được đo bởi các tác nhân hữu hình như quỹ tài trợ và phòng thí nghiệm.

Ông nói: “Các nhóm nghiên cứu thành công là các nhóm tự phát triển và biến đổi qua thời gian. Ví dụ, một cá nhân nảy ra ý tưởng mới, anh ta nhận được tài trợ, và một nhóm nghiên cứu bắt đầu hình thành liên quan đến ý tưởng đó. Điều này tạo nên một khuôn khổ trong đó nhiều nhóm nhỏ đóng góp vào ý tưởng chung”.

Biệt giam

Bejan nghĩ rằng cực đoan không có lợi cho khoa học.

Ông nói: “Nếu một viện nghiên cứu chỉ bao gồm các nhà nghiên cứu đơn lẻ, nó sẽ có nhiều ý tưởng nhưng lại có ít hỗ trợ. Mặt khác, một nhóm lớn vì lợi ích số đông sẽ có nhiều hỗ trợ nhưng lại có ít sáng kiến hơn tính theo số lượng nhà nghiên cứu”.

Vấn đề này là hình ảnh thu nhỏ của nghiên cứu kiểu Xô Viết cũ, nơi mà chính phủ đặt ra mục tiêu và phạm vi nghiên cứu, đồng thời quy định cấu trúc nguyên khối với các nhà khoa học có cùng mục đích.

Không có sự bất đồng thừa kế nào giữa các đế chế nghiên cứu và các cá nhân, mà là sự cân bằng để phục vụ cho lợi ích lớn hơn.Do đó, các nhà quản lý viện nghiên cứu cần phải thoải mái hơn với các cá nhân có ý tưởng lớn.

Bejan cho biết: “Tôi cho rằng những người quản lý ép buộc cộng sự của họ làm việc theo nhóm lớn chỉ để thu hút tài trợ, để tăng lý lịch của họ hoặc để tốn nhiều giấy hơn. Họ đang hoạt động đối lập với bản chất tự tổ chức của viện nghiên cứu cũng như nghiên cứu. Sự liên kết tuyệt đối trong các nhóm lớn không xảy ra và sẽ không bao giờ xảy ra”.

Einstein thế hệ kế thừa?

Một số người lập luận rằng bản chất của thiên tài là cái không thể hủy bỏ hoặc không thể ngó ngàng tới.

Một nghiên cứu kéo dài 35 năm công bố vào năm 2006 về trẻ em có năng khiếu toán học bẩm sinh sẽ sống như thế nào trong cuộc đời của chúng đã tiết lộ thành phần của một bộ óc vĩ đại nhiều sáng kiến: khả năng nhận thức, cơ hội giáo dục, niềm đam mê và chăm chỉ làm việc. Không phải tất cả mọi người khi sinh ra thông minh rồi sẽ trở thành thiên tài.

Vậy khi nào Einstein thế hệ kế tục sẽ xuất hiện?

Đó là một câu hỏi mà ngay cả Einstein cũng không thể trả lời. Nhưng theo các đối thủ thiên tài vĩ đại khác của Einstein, hai thập kỷ phân cách giữa Einstein và Newton chẳng có nghĩa lý gì. Điều đó có nghĩa là Einstein hậu thế có thể đang là một đưa trẻ sơ sinh hoặc cũng có thể chưa ra đời.

Có phải thiên tài mới làm Toán?

Câu trả lời là hoàn toàn KHÔNG. Để có những cống hiến tốt và hữu ích cho toán học, bạn cần phải làm việc chăm chỉ, nghiên cứu sâu một lĩnh vực, tìm hiểu các lĩnh vực và các công cụ khác, đặt câu hỏi, nói chuyện với các nhà toán học, và suy nghĩ về những "bức tranh lớn". Và tất nhiên, một lượng đủ trí thông minh, kiên nhẫn, và cẩn thận cũng là các yêu cầu. Điều đó không có nghĩa là cần một tố chất thiên tài kì diệu mà từ đó sinh ra các cái nhìn sâu sắc, các lời giải xuất thần cho các bài toán, hoặc những khả năng siêu nhiên khác.
 có phải thiên tài mới làm Toán
Hình ảnh phổ biến về các thiên tài cô độc (và có thể hơi điên) - những người bỏ qua các sách vở và các quy ước và điều khiển bởi một số nguồn cảm hứng không thể giải thích được từ đó tìm ra một lời giải tuyệt vời cho một bài toán làm ngỡ ngàng tất cả các chuyên gia - không những là một hình ảnh duyên dáng và lãng mạn, mà còn là một hình ảnh cực kì không chính xác, ít nhất là trong thế giới của toán học hiện đại. Đúng là ta có các kết quả và hiểu biết ngoạn mục, sâu sắc và đáng chú ý trong toán học, nhưng chúng là những thành công vất vả và thành tựu đó có được nhờ sự tích luỹ trong nhiều năm, nhiều thập kỷ, hoặc thậm chí nhiều thế kỷ với sức làm việc bền bỉ và sự tiến bộ của nhiều nhà toán học giỏi và vĩ đại; việc chuyển biến từ giai đoạn hiểu biết này sang giai đoạn khác là không tầm thường, và đôi khi khá bất ngờ, nhưng vẫn xây dựng dựa trên nền tảng của công việc trước đó chứ không phải là hoàn toàn bắt đầu từ đầu. (Chẳng hạn với công việc của Wiles trong Định lý cuối cùng của Fermat, hoặc của Perelman với giả thuyết Poincaré.)

Thực ra, tôi tìm thấy thực tế của những nghiên cứu toán học ngày nay - trong đó những tiến bộ là có được một cách tự nhiên là hệ quả của công việc khó khăn, trực tiếp bằng trực giác, các tài liệu chuyên ngành, và một chút may mắn - là thoả đáng hơn rất nhiều so với hình ảnh lãng mạn tôi có trước đó là một sinh viên toán đạt được thành tựu từ các nguồn cảm hứng thần bí của một số dòng máu "thiên tài" quý hiếm. Việc "sùng bái thiên tài" trong thực tế gây ra một số vấn đề, vì không ai có thể sản xuất (rất hiếm) nguồn cảm hứng về bất cứ điều gì khi tiếp cận một cách thường xuyên, và với độ chính xác hoàn toàn đáng tin cậy. (Nếu ai đó có ảnh hưởng đến như vậy, tôi khuyên bạn nên hoài nghi về các tuyên bố của họ.) Áp lực cố gắng hành xử theo điều không tưởng này có thể làm cho một số người bị ám ảnh với "những bài toán lớn" hoặc "học thuyết lớn", những người khác mất mọi nghi ngờ đúng đắn trong nghiên cứu hoặc trong các công cụ của họ, và một số người khác chán nản khi tiếp tục nghiên cứu toán học. Ngoài ra, việc cho rằng sự thành công từ tài năng bẩm sinh (ra khỏi tầm kiểm soát) chứ không phải là do nỗ lực, làm việc theo kế hoạch, và giáo dục (trong vòng kiểm soát) có thể dẫn đến một số vấn đề khác.

Tất nhiên, ngay cả khi bác bỏ khái niệm của thiên tài, vẫn còn đó suy nghĩ, một số nhà toán học nhanh hơn, nhiều kinh nghiệm hơn, hiểu biết hơn, hiệu quả hơn, cẩn thận hơn, hoặc nhiều sáng tạo hơn những người khác. Tuy nhiên điều này không bao hàm chỉ các nhà toán học "tốt nhất" mới nên làm toán, đây là sai lầm chung do hiểu nhầm giữa lợi thế tuyệt đối lợi thế cạnh tranh. Các lĩnh vực nghiên cứu và các vấn đề toán học thú vị để nghiên cứu là rất rộng lớn - vượt xa tầm thâu tóm của các nhà toán học "tốt nhất", và đôi khi trong tập hợp các công cụ hay ý tưởng rằng bạn sẽ tìm thấy cái gì mà các nhà toán học giỏi khác có bỏ qua, đặc biệt ngay cả các nhà toán học lớn nhất vẫn còn có những điểm yếu trong một số khía cạnh của nghiên cứu toán học. Miễn là bạn có giáo dục, có đam mê, và một lượng tài năng thích hợp, sẽ có một số phần của toán học, nơi bạn có thể tạo ra các đóng góp liên tục và hữu ích. Nó có thể không là phần quyến rũ nhất của toán học, nhưng thực tế điều này cũng không tệ, trong nhiều trường hợp các điều cơ bản tầm thường của một vấn đề lại trở nên thực sự quan trọng hơn bất kỳ các ứng dụng ưa thích nào. Mặt khác, đúc rút các kinh nghiệm từ các phần không hấp dẫn của một lĩnh vực là cần thiết trước khi có bất kỳ cơ hội để tấn công những bài toán nổi tiếng trong lĩnh vực nào đó; hãy xem các ấn phẩm đầu tay của bất kỳ nhà toán học vĩ đại thời nay để kiểm chứng những gì tôi nói.

Trong một số trường hợp, nhiều tài năng "chưa qua xử lý" trở nên thực sự có hại cho sự phát triển của toán học lâu dài của một người; nếu các lời giải cho các bài toán đến quá dễ dàng, ví dụ như, người đó không cần đặt nhiều năng lượng nhiều vào làm việc chăm chỉ, đặt các câu hỏi ngớ ngẩn, hoặc mở rộng phạm vi của mình, và vì thế cuối cùng các kỹ năng của người đó bị kìm hãm. Hơn nữa, nếu một người quen với sự thành công dễ dàng, họ không thể phát triển đủ tính kiên nhẫn cần thiết để đối phó với vấn đề thực sự khó khăn. Tài năng là quan trọng, tất nhiên, nhưng làm thế nào để phát triển và nuôi dưỡng nó càng quan trọng hơn.

Nên nhớ rằng toán học chuyên nghiệp không phải là một môn thể thao (tương phản sắc nét với các cuộc thi toán học). Mục tiêu trong toán học không phải là để có được thứ hạng cao nhất, "điểm số" cao nhất, hoặc giải thưởng cao nhất, thay vào đó là sự gia tăng hiểu biết về toán học (cả cho chính bạn, và cho đồng nghiệp và sinh viên của bạn), và để gánh vác một phần sự phát triển và các ứng dụng của nó. Để thực hiện những công việc này, toán học cần tất cả những người tốt mà nó có được.
(Theo VnMath.Com, dịch từ blog của Terry Tao)

Thứ Ba, 26 tháng 1, 2010

Ngô Bảo Châu làm giáo sư Toán tại Đại học Chicago

Nhà toán học Ngô Bảo Châu, người có công trình được vinh danh là phát hiện khoa học quan trọng nhất của năm, vừa nhận lời mời làm giáo sư tại Đại học Chicago, Mỹ.

Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu.
Theo Newswise, Bảo Châu chấp nhận quyết định bổ nhiệm vào ngày 25/1. Anh sẽ trở thành giáo sư toán của trường từ ngày 1/9/2010.
“Rõ ràng đây là một trong những nhà toán học xuất sắc nhất thời đại của chúng ta. Tôi kỳ vọng những điều thực sự lớn lao từ người thanh niên này”, Robert Fefferman, giáo sư toán kiêm trưởng khoa Vật lý của Đại học Chicago, phát biểu.
Ông Peter Constantin - trưởng khoa Toán của Đại học Chicago - nhận xét: "Bảo Châu đã đạt được những thành tựu đột phá. Công trình của cậu ấy là cầu nối giữa hai lĩnh vực (số học và hình học)".
Bảo Châu, 37 tuổi, được tạp chí Time tôn vinh sau khi anh chứng minh được bổ đề cơ bản trong "chương trình Langlands". Nếu chương trình Langlands được giải quyết, loài người sẽ gần như có được một cái nhìn thống nhất cho nhiều ngành của toán học hiện đại như số học, đại số và giải tích. Khi công trình của Bảo Châu - bao gồm gần 200 trang - được xác nhận là đúng, giới toán học khắp thế giới đã thở phào nhẹ nhõm.
“Cơ hội cộng tác chặt chẽ hơn với các đồng nghiệp tại Đại học Chicago đóng vai trò quan trọng đối với quyết định tới Chicago của tôi. Mọi người đang giải quyết một số vấn đề cơ bản nhất trong toán học tại khoa Toán của Đại học Chicago”, Bảo Châu tâm sự.
Ngô Bảo Châu, sinh năm 1972, từng học khối phổ thông chuyên toán của Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Mùa hè 1988, anh tham dự kỳ thi Olympic Toán quốc tế tại Australia và giành huy chương vàng. Mùa hè năm sau anh tiếp tục giành huy chương vàng Olympic Toán quốc tế tại Đức. Cũng trong năm 1989 Châu sang Pháp để học tại Đại học Paris 6. Anh bảo vệ luận án tiến sĩ khi mới 25 tuổi tại Đại học Sư phạm Paris - ngôi trường danh tiếng bậc nhất nước Pháp. Năm 2003, ở tuổi 31, anh hoàn thành luận án habilitation (tương đương tiến sĩ khoa học) tại Đại học Paris 11. Đầu năm sau anh trở thành giáo sư của đại học này.
Vào năm 2004 anh đã nhận giải thưởng nghiên cứu hàng năm của Viện Toán học Clay, Mỹ dành cho những người đạt thành tựu xuất sắc nhất trong năm nhờ giải quyết một trường hợp đặc biệt của “chương trình Langlands”. Mỗi năm chỉ có một hoặc hai người được trao giải và Châu là người Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng này.
Sau khi nhận giải thưởng Clay, anh được Viện nghiên cứu khoa học cao cấp tại Princeton của Mỹ mời sang làm việc. Viện này là nơi quy tụ nhiều nhà toán học và nhà vật lý hàng đầu thế giới, trong đó nhiều người từng đoạt giải Nobel và giải Fields. Châu còn nhận được giải thưởng của Viện Nghiên cứu Toán học Oberwolfach dành cho các nhà toán học trẻ châu Âu vào năm 2007 và giải thưởng của Viện Hàn lâm Pháp vào năm 2008.

Thứ Hai, 25 tháng 1, 2010

Số phức từ A tới Z - Titu Andreescu - Complex numbers from A to Z

Bài viết Số phức từ A đến Z - Complex Numbers from A to Z, Titu Andreescu được tôi viết cách đây khá lâu (11.11.08). Hôm nay giới thiệu lại và có thêm một mục đích khác.

Tiêu đề bài viết được lấy theo tiêu đề cuốn sách rất nổi tiếng về số phức của TS Titu Adreescu. Nội dung cuốn sách này phủ hầu khắp các vấn đề liên quan số phức: từ xây dựng trường số phức, số phức dạng lượng giác, đến hình học phức...
Nếu bạn có khả năng về tiếng Anh thì đây có thể xem là tài liệu tuyệt vời nhất về số phức cho bạn. Nếu không bạn có thể sử dụng một bản dịch chọn lọc các bài tập cơ bản của cuốn sách này.
Download cuốn sách nguyên bản tiếng Anh tại đây: Download
Download bản dịch (một phần bài tập) và một tập tài liệu tiếng Việt về lý thuyết số phức tại đây: Download

Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2010

Vài năm nữa sẽ không tuyển được giáo viên giỏi


Trong chủ đề "giáo viên tám không" mà bạn đọc VietNamNet đang quan tâm và thảo luận sôi nổi, cô giáo cấp 2 đã về hưu Nguyễn Thị Minh Hoa ở Hà Nội "xin nói tiếp tới một thực trạng nguy hiểm của ngành giáo dục (GD), mà một vài phản hồi ở đây đã nhắc đến". Đó là những cảnh báo rằng 3 đến 10 năm nữa, chúng ta sẽ không tuyển được người giỏi vào ngành GD.
Dưới đây là ý kiến của bạn đọc Minh Hoa.
Mô tả ảnh.
Giờ học của thầy và trò Trường THCS nội trú Lộc Bình (Lạng Sơn). Ảnh: Lê Anh Dũng
Tôi nghĩ rằng, không phải 3 đến 10 năm nữa, mà ngay cả hiện nay chúng ta đã đang và sẽ không thể tuyển được người giỏi làm nghề dạy học. Vì sao vậy?
Trừ những người giỏi đã trót ở gần hết đời hoặc quá nửa đời người với nghề đành ở lại, chứ những ai năng động, có tâm, có tầm, có tài lại chịu làm việc ở môi trường nhiều áp lực như nghề dạy học?

Đã thế, chỉ nhận được đồng lương "giật gấu vá vai". Nếu dạy thêm thì bị xã hội "miệt thị".

Còn người trẻ, đã trót học sư phạm (SP), có ai kiên trì đi dạy hợp đồng (HĐ) năm này qua năm khác với số tiền chưa đủ tiền ăn sáng không?

Ở trường tôi, có những em dạy HĐ đến năm thứ ba mà chỉ được trả 200.000 đồng mỗi tháng. Ngoài việc phân nhiều giờ, nhà trường còn giao cho các em đủ mọi việc, nào là công tác Đoàn Đội, Thư viện, phòng Thí nghiệm,... đủ mọi việc không tên, không tiền... Đã thế, chẳng may lại còn bị ăn mắng...

Có em sau khi tốn kém nhờ vả để dược dạy HĐ, không ngờ thực tế cay đắng như thế, về khóc với mẹ, rồi hai mẹ con cùng ôm nhau khóc.

Trượt biên chế  vì "đấu" không tới "giá"

Có người sẽ hỏi sao các em không thi vào biên chế đi để ăn lương Nhà nước?

Xin thưa: không dễ.

Nếu là 3 môn có thể "kiếm ăn" bằng dạy thêm như Văn, Toán, Tiếng Anh thì tùy từng địa bàn mà người ta "ra giá".

Mà cái giá này người ta có nói thẳng với mình đâu... Vậy là người xin việc cứ dò dẫm, qua cầu nọ cầu kia... Cho nên, có những người thi biên chế đến lần thứ 3, thứ 4 mà vẫn rớt vì "đấu" chưa tới "giá".

Thế nhưng vào được biên chế, công việc đồng lương thế nào thì... ai cũng biết.

Trong khi các công ty các liên doanh người ta chào mời, đào tạo, đãi ngộ người tài... rầm rộ, liệu có nên bỏ qua?

"Con ngỗng đẻ trứng vàng" cho nhà quản lý?

Chắc là vẫn có người muốn vào ngành SP. Nhưng tuyệt đại đa số chắc không phải con em GV.

Trong khi các ngành khác như là Ngân hàng, Bưu điện... việc cho con vào ngành là một ưu đãi thì trong ngành GD không có.

Nhưng giả sử nếu có thì sẽ là một nỗi khiếp sợ của cha mẹ. Cách đây 3 năm, trường tôi có một GV định cho con thi SP. Cả trường ai cũng gàn, những người chân tình thì khuyên "đừng", những người mạnh mồm thì bảo "hâm".

Trong thời đại cạnh tranh như thế này, ngành nghề nào còn bao cấp, ngành đó không tuyển được người tài. Nhà nước càng có nhiều ưu đãi tầm vĩ mô thì càng béo bở người canh cổng ở vi mô. Ngành GD là một ngành nghề bao cấp như thế.

Hiện nay, nó là con "ngỗng đẻ trứng vàng" cho những nhà quản lý, còn GV thì nói chung là. người .. đổ vỏ.

Nhà nước có nhiều ưu đãi, nhưng đến được tay GV thì rất ít.

Ai muốn vào nghề dạy học nữa, trừ khi "chạy cùng sào, đành vào... SP"!

  • Nguyễn Thị Minh Hoa (đường Lê Trọng Tấn, Thanh Xuân, Hà Nội)
Đọc những ý kiến của các đồng nghiệp mà cảm thấy buồn. Ý kiến nào cũng có lý. Nhưng "đã mang lấy nghiệp vào thân" thì phải chịu vậy. Cứ làm việc theo lương tâm của một con người các bạn sẽ cảm thấy thanh thản.
Nguyễn Hoa (Thanh Hóa)
Tôi xin đưa ra ý kiến này! Các bạn cứ nói là đồng lương giáo viên không đủ sống.  Các bạn là thầy giáo mà nói dối không biết ngượng. Dạ thưa,  lương các bạn hiện giờ là (2,34x650)x1.3 nữa, vị chi gần 2 triệu đồng. Các bạn không đủ tiêu? Đồng ý nếu bạn ở thành phố. Còn ở huyện, thị xã, thậm chí một số tỉnh thì vẫn sống bằng lương như thường.
Các bạn thử ra ngoài xã hội thử là việc xem, trăm thứ chuyện đau đầu, chuyện sếp, đồng nghiệp ganh ghét, đối nội, đối ngoại. Một ngày hết 10 tiếng với 100% sức lực, tối về phải chăm lo cái gia đình bé nhỏ nữa, rồi chuyện con cái học hành, thầy cô, ra bài nhiều quá, con không làm hết cô giáo la con, làm ngoài còn có thu nhập để trả tiền học thêm và các khoản phát sinh của nhà trường, còn làm công chức thì sao? Một đièu chắc là lương thấp hơn giáo viên rồi. Một ngày, giáo viên dạy bao nhiêu thời gian? Công chức nhà nước, một ngày làm 8 tiếng, rồi nội bộ đấu đá, đồng nghiệp với nhau mà bằng mặt không bằng lòng. Thôi tổng kết là nhưu vậy, mỗi ngành mỗi nghề đều có cái khó và khổ như nhau. Các bạn cũng được xã hội tôn trọng, học trò khi nhắc đến côgiáo, thầy giáo đều rất tôn trọng rồi.
Lê Thanh Bình (Nha Trang, Khánh Hoà)
 Là một giáo viên dạy THCS đã được mười hai năm, ban đầu tôi yêu nghề lắm. Bằng chứng là tôi đã được mấy tấm giấy chứng nhận giáo viên giỏi... nhưng càng ngày tôi càng muốn bỏ nghề.
Bởi vì: áp lực trong ngành giáo dục ngày càng tăng, những quy định rập khuôn máy móc, sự thực dụng trong quan hệ giữa các đồng nghiệp trong trường, học sinh vô lễ với thầy cô, đồng lương không đủ sống...
Các bạn thử tượng tượng xem sẽ như thế nào trong trường hợp sau : dạy hết tiết 5, đã gần 12h trưa, ra đến cổng trường có một đám học sinh ném vào trước bánh xe máy một tấm ván cắm đinh nhọn , cổng trường đông không kịp tránh, bánh xe đâm phải đinh xì hơi. Tôi phải dắt xe dưới cái nắng gay gắt hơn hai cây số mới có chỗ vá xe...Những ngày sau đó lên lớp tôi không dám nhìn xuống học sinh "thân yêu " của mình nữa vì tôi sợ mình muốn bỏ nghề nhanh hơn...
Trần Mỹ Linh (Vinh - Nghệ An)
Theo Vietnamnet.vn

Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2010

52 đề Olympic Toán 2000 và lời giải


Tuyển tập 52 đề Olympic Toán năm 2000 và lời giải.
Được tổng hợp bởi thầy Nguyễn Hữu Điển.
Download theo liên kết ở đây: Download

Thứ Năm, 21 tháng 1, 2010

Isaac Newton và giai thoại quả táo rơi

Những tài liệu được viết bằng tay, miêu tả chi tiết về việc nhà khoa học Isaac Newton đưa thuyết vạn vật hấp dẫn sau khi ông chứng kiến những trái táo rơi từ trên cây xuống đất, đã lần đầu tiên được Hội Hoàng gia Anh cho công bố trên Internet.

Mô tả ảnh.

Tài liệu miêu tả khoảnh khắc nhà khoa học Newton phát hiện ra thuyết vạn vật hấp dẫn là một phần trong cuốn sách dày 1752 trang về tiểu sử các nhà khoa học vĩ đại của tác giả William Stukeley. Cho đến trước thời điểm công bố rộng rãi, cuốn sách quý hiếm này vẫn được lưu giữ tại Hội Hoàng Gia (Royal Society).

Bản báo cáo viết tay này là một trong số những tài liệu về Newton được công khai trên internet bởi Viện Hàn lâm Anh quốc nhân kỷ niệm 350 năm thành lập viện này.

Lord Rees, chủ tịch Hội Hoàng Gia, nói: “Cuốn sách của Stukeley cung cấp những thông tin giá trị và chính xác về tiểu sử của các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới. Tôi rất vui khi cuốn sách này được số hóa và đưa lên mạng. Điều này sẽ cho phép mọi người có thể dễ dàng tiếp cận với những tài liệu viết tay có một không hai này”.

Stukeley cũng sinh ra ở Lincolnshire và đã sử dụng quan hệ này để kết bạn với Newton. Stukeley đã vài lần trò chuyện với anh bạn thâm niên hơn kia, và hai người gặp nhau đều đặn vì là thành viên của Hội Hoàng gia, và trao đổi với nhau. Vào một dịp đặc biệt trong năm 1726, Stukeley và Newton đã có một buổi ăn tối chung với nhau ở London.

“Sau buổi tối, tiết trời đang ấm áp, chúng tôi đã tản bộ ra vườn và uống trà dưới tán một số cây táo, chỉ có ông và tôi”, Stukeley viết trong tập bản thảo viết tay kĩ càng mà Hội Hoàng gia cho công bố.


Mô tả ảnh.
Mô tả ảnh.
Mô tả ảnh.
Isaac Newton và những trang viết về ông của Stukeley

“Giữa những bài thuyết giảng khác, ông bảo tôi, ông lại ở trong tình huống tương tự, như trước đây khi ý tưởng về lực hấp dẫn xuất hiện trong đầu của ông. Tại sao quả táo đó luôn luôn rớt thẳng đứng xuống đất, ông tự nghĩ mãi; nhân lúc một quả táo rơi xuống, khi ông ngồi trong tư thế suy tư.

“Tại sao nó không rớt sang bên, hay rớt lên trên cao? Mà cứ luôn phải rớt xuống tâm trái đất? Nhất định lí do là trái đất đã hút nó xuống. Phải có một sức mạnh hút kéo nào đó ở vật chất. Và tổng sức mạnh hút kéo trong vật chất của trái đất phải nằm ở tâm của trái đất, chứ không nằm ở bất kì chỗ nào khác của trái đất.

“Vì thế, quả táo này có rơi vuông góc hay tiến về phía tâm ấy hay không? Nếu vật chất theo cách đó hút lấy vật chất, thì nó phải tỉ lệ với lượng của nó. Do đó, quả táo hút lấy trái đất, đồng thời trái đất hút lấy quả táo”.

Tác giả Stukeley cũng thu thập các tư liệu về thời niên thiếu của Newton trong thời gian định cư và học ở Grantham, Lincolnshire. Trong đó, một câu chuyện đã ghi lại rằng lúc nhỏ nhà bác học Newton đã dựng được một mô hình của cối xay gió và làm nó hoạt động như cối xay gió thực.

Học sinh giỏi "rớt hạng" khi vào cấp 3

Suốt 9 năm học phổ thông đều đạt danh hiệu học sinh giỏi, nhưng khi chuyển cấp vào lớp 10, nhiều học sinh TP HCM “rớt” xuống hạng khá, thậm chí trung bình.
Số liệu thống kê kết quả loại học lực học kỳ 1, năm học 2009 - 2010 của Sở GD-ĐT TPHCM mới đây cho thấy, số học sinh lớp 9 đạt khá giỏi 57,67% (ở năm học 2008 - 2009) nhưng khi vào lớp 10 năm học này chỉ còn khoảng 38%, (giảm gần 20%). Đặc biệt, số học sinh lớp 9 yếu kém ở năm học trước là 9,3%, khi vào lớp 10 đã tăng lên gần 25%. 




Nhiều học sinh giỏi bậc phổ thông "rớt hạng" khi lên lớp 10 vì chưa quen với môi trường dạy và học mới.


“Tụt hạng” không phải do lười học

Nguyễn M.N., học sinh lớp 11A17, THPT Phú Nhuận, cho biết: “Suốt 9 năm học phổ thông đều là học sinh giỏi, nhưng từ năm lớp 10 đến giờ, chỉ đạt loại khá, có học kỳ còn suýt nữa xuống trung bình”. Cùng chung cảnh ngộ này, Thụy Vy, cựu học sinh giỏi của THCS Cầu Kiệu, hiện là học lớp 11 THPT Phú Nhuận giải thích: “Nhiều học sinh lên cấp III phải mất cả một học kỳ năm lớp 10 mới có thể làm quen được cách giảng bài của thầy cô. Vì vậy, việc tụt hạng không phải là do học sinh lười học”.


Lý giải nguyên nhân sa sút của nhiều học sinh sau chuyển cấp, ông Nguyễn Hoàng Việt, Hiệu trưởng THPT Phú Nhuận, phân tích: “Ở cấp II, thầy cô thường có xu hướng cố gắng “dìu” học sinh thi đậu vào lớp 10. Nhưng thực tế, có nhiều em sau đó đã không đủ sức theo chương trình cấp II”. 
Ở khía cạnh khác, bà Nguyễn Thị Náo, THPT Nguyễn Khuyến, cho rằng học sinh mới chuyển cấp vẫn quen với lối dạy và học “đọc - chép” và “học vẹt” nên chưa thể bắt nhịp được với cách dạy và học ở bậc THPT. Ngoài ra, thang điểm đánh giá học sinh THPT cũng khác rất nhiều so với bậc THCS.


Băn khoăn về sự “tụt hạng” của nhiều học sinh giỏi, thầy Bùi Hùng Chiến, Hiệu trưởng THPT An Nhơn Tây, huyện Củ Chi thẳng thắn nhận xét: “Thành tích học tập ở cấp 2 của nhiều HS không khéo là ảo. Đơn cử tại trường tôi, đầu năm tiến hành kiểm tra các môn Toán, Văn, Ngoại ngữ, chỉ có 20 % học sinh đạt điểm 8 trở lên, còn lại toàn điểm yếu kém”. 

Xem lại cách đánh giá học lực ở bậc THCS

Trước tình trạng học sinh THCS không theo kịp cách dạy và học ở bậc THPT, nhiều trường đã tiến hành “phân loại” học sinh ngay từ đầu vào lớp 10. Theo ông Hoàng Minh Thịnh, Hiệu phó chuyên môn THPT Lê Qúy Đôn, giáo viên cần phân loại học sinh và có kế hoạch phụ đạo, giúp đỡ cho học sinh yếu kém, cũng như phát hiện những bất thường đối với học sinh khá, giỏi. Ông Lê Xuân Dũng, Hiệu trưởng THPT Nguyễn Thái Bình, cũng cho rằng, giai đoạn chuyển tiếp lên cấp III, học sinh vẫn chưa quen môi trường học tập mới cũng như phương pháp dạy của thầy cô. Do đó, giáo viên cần dạy ở tốc độ vừa phải để giúp học sinh làm quen dần.


Hiệu trưởng các THPT đều khẳng định, phải xem lại cách đánh giá học lực của học sinh bậc THCS cũng như phân luồng học sinh ngay từ cuối cấp, nếu không, các trường THPT lại phải hứng lấy trách nhiệm khá nặng nề vì học sinh “ngồi sai lớp”.


Số liệu thống kê kết quả học kỳ 1, năm học 2009-2010 của Phòng Trung học, Sở GD-ĐT TPHCM cũng cho thấy, không chỉ tỷ lệ học sinh giỏi lớp 10 giảm mạnh, tỷ lệ học sinh yếu kém gia tăng đáng lo ngại mà tình hình học sinh (khối 10, 11, 12) thôi học trong học kỳ 1 cũng đáng quan tâm. Trong 1.557 học sinh thôi học trong HK1 này, có 674 học sinh nghỉ học do học lực yếu kém (chiếm 43,28%). Điều này chứng tỏ sự đánh giá kết quả học tập cuối cấp của bậc THCS chưa thật sự khách quan.
 Theo Đất Việt

Khiêu vũ và âm nhạc giúp học sinh hứng thú học Toán

Các trường học ở Anh đang phải “nhờ cậy” đến kịch, âm nhạc và khiêu vũ để kích thích niềm say mê của học sinh đối với các môn học như toán và khoa học, Cơ quan Chứng nhận Tiêu chuẩn Giáo dục Anh (Ofsted) cho biết.



Học sinh Anh đóng kịch trong ngày Giáng sinh. (Ảnh: Oakfieldhouseschool)

Các giáo viên Anh đang dần từ bỏ những phương pháp giảng dạy truyền thống như nói và viết vì nhận thấy chúng không còn khiến học sinh yêu thích những môn học khô cứng nữa.
Một trường học thậm chí đã tổ chức hẳn một sự kiện Tuần lễ Thời trang Luân Đôn để giúp học sinh học về công nghệ và khoa học phía sau lĩnh vực thời trang.
Ofsted cho biết một trường trung học đã sử dụng trống để nêu bật mối quan hệ giữa các con số trong môn Toán. Học sinh được khuyến khích học theo nhịp trống để có thể nhớ được bảng cửu chương nhanh hơn, nâng cao khả năng nhớ các con số.
Bản báo cáo của Ofsted còn tiết lộ phương pháp mà một giáo viên thường sử dụng là một điệu nhảy để giúp các học sinh phát triển sự hiểu biết của họ về liên kết hóa học trong một bài học. Tương tự, một trường phổ thông cũng cho phép học sinh đóng kịch tội phạm giả để giúp các em có hứng thú với việc học pháp luật hơn.
Tuy nhiên, những tiết lộ này cũng làm dấy lên nỗi lo lắng về việc nội dung trọng tâm của các môn học đã bị sao nhãng và các em học sinh không còn được tiếp thu chúng đúng cách.
Anastasia de Waal, đứng đầu một viện nghiên cứu, cho biết: “Tôi cảm thấy lo lắng về ý tưởng này với mục đích khiến cho việc giảng dạy thú vị hơn và để thu hút các em học sinh nhưng các giáo viên lại phải hạ thấp trình độ của các bài học”.
Nhưng Patrick Leeson, giám đốc của Ofsted cho rằng “những phương pháp sáng tạo” sẽ giúp các môn học trở nên “gần gũi và thu hút” học sinh hơn.
Bản báo cáo của Ofsted dựa trên kết quả thanh tra 44 trường học ở Anh chỉ ra rằng những phương pháp theo xu hướng mới mang lại kết quả tốt đẹp ngoài sự mong đợi. Tại một trường học, chứng chỉ GCSE (tương đương bằng tốt nghiệp THCS ở Việt Nam) tăng gấp đôi trong ba năm sau khi nhà trường áp dụng những phương pháp giảng dạy mới.
Tuy nhiên, bản báo cáo cũng cảnh báo một số giáo viên đã không thể đẩy mạnh việc áp dụng phương pháp giảng dạy sáng tạo hơn bởi họ nghi ngờ điều đó khiến học sinh không thể vượt qua các kì thi.

Võ Hiền, DanTri


262 đề tuyển sinh vào lớp 10 THPT - môn Toán

Bộ 262 đề tuyển sinh môn Toán vào lớp 10 của nhiều trường THPT trong toàn quốc.
Download tại đây (MediaFire link, 2.2 MB): 262 De tuyen sinh lop 10 THPT mon Toan

Thứ Ba, 19 tháng 1, 2010

Nguyên hàm, tích phân và ứng dụng - Trần Sĩ Tùng

Một tập tài liệu về Nguyên hàm, tích phân được soạn thảo công phu của thầy Trần Sĩ Tùng. Bao gồm tóm tắt lý thuyết, phương pháp giải, phân loại các dạng toán liên quan đến nguyên hàm tích phân,... dày 152 trang, dung lượng 1 MB.
nguyen ham tich phan va ung dung - tran si tung
Chắc chắn đây sẽ là tập tài liệu hữu ích cho học sinh 12 và các giáo viên Toán.
Download ở đây: Nguyen ham, tich phan va ung dung - Tran Si Tung

Xem thêm các tài liệu hay về tích phân:
1. Bài giảng Tích phân - Phạm Kim Chung ,
2. Bất đẳng thức tích phân - Nguyễn Phú Khánh

Thứ Hai, 18 tháng 1, 2010

Quốc học Huế: Chưng hửng với quyết định "đi lui"

UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế vừa có quyết định đổi tên Trường THPT chất lượng cao Quốc Học Huế thành Trường THPT chuyên Quốc Học Huế. Hầu như ai ai cũng chưng hửng.

Với quyết định này, Thừa Thiên Huế đã cho trường Quốc Học Huế hạ cấp, tự nguyện bước ra khỏi tốp ba toàn quốc, để hoà mình vào tốp 60 trường chuyên, có mặt ở hầu khắp các tỉnh thành (nhiều tỉnh có trường chuyên từ THCS đến THPT).
truong quoc hoc hue thanh truong chuyen
Cách đây 15 năm Thủ tướng Chính phủ ký quyết định đưa Trường THPT Quốc Học Huế và Trường THPT Chu Văn An - Hà Nội, Trường THPT Lê Hồng Phong – TPHCM, vào đề án xây dựng trường THPT chất lượng cao (CLC) với nhiệm vụ đào tạo học sinh CLC và học sinh khối chuyên. Có nghĩa là trong trường CLC đã bao gồm trường chuyên.

Năm 2005, điểm 10 môn văn trong kỳ thi tuyển sinh đại học xuất hiện sau nhiều năm vắng bóng là bài thi của một học sinh khối CLC trường Quốc Học Huế.

Bên cạnh trường CLC, Hà Nội và TPHCM còn phát triển thêm các trường chuyên như Amsterdam (Hà Nội), Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Thượng Hiền (TPHCM). Ngược lại, Thừa Thiên Huế tự nguyện thu mình lại, đi ngược với định hướng của đề án xây dựng trường CLC của Bộ GD&ĐT.

Việc Quốc Học Huế tự nguyện rút ra khỏi danh sách ba trường THPT CLC của cả nước cho thấy Huế tiếp tục mất dần vai trò trung tâm trên một số lĩnh vực.

Kể từ sau năm 1945, Huế không còn là trung tâm chính trị nhưng vẫn giữ vai trò là một trung tâm văn hoá, trung tâm giáo dục. Với thương hiệu trường CLC, hàng năm Quốc Học Huế tuyển sinh không ít học sinh giỏi từ các tỉnh thành lân cận.

Nếu là trường chuyên đơn thuần, nguồn tuyển sinh này sẽ mất hẳn, Quốc Học Huế mất vai trò là trung tâm đào tạo cho cả khu vực.

Theo Thanh Tùng, Tiền Phong Online

Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2010

GS Hoàng Tụy - vượt Trường Sơn tầm sư học đạo

Giới toán học thế giới coi ông là “cha đẻ của tối ưu toàn cục”, người mở đường cho một chuyên ngành toán học mới.

Nổi tiếng trên thế giới, rồi mới được trong nước chú ý tới


Một ngày đầu năm, tôi đến thăm GS Hoàng Tuỵ tại nhà riêng ở phố Đội Cấn, Hà Nội. Ông đã “ngoại bát tuần” nhưng vẫn khoẻ, sáng suốt, dồi dào sức sáng tạo. Tờ Journal of Optimization Theory and Applications (Tạp chí Tối ưu hoá lý thuyết và ứng dụng) trong những số gần đây vẫn đăng các công trình mới của ông. Ông vẫn được mời sang Pháp, Mỹ cộng tác nghiên cứu...
GS Hoang Tuỵ làm việc tại nhà riêng. Ảnh HC

Cứ mỗi lần gặp GS Tuỵ, tôi lại nhớ đến câu nói của anh bạn tôi, một tiến sĩ khoa học toán học: “Ông Tuỵ nổi tiếng ở nước ngoài có phần còn hơn ở trong nước; nổi tiếng trên thế giới, rồi mới được trong nước chú ý tới!”

Năm 1990, Tiến sĩ Neal Koblitz, cựu sinh viên Đại học Harvard, giáo sư Đại học Washington, sang thăm Việt Nam. Trở về Mỹ, ông viết một bài báo tiếng Anh dài tới 30 nghìn từ, chiếm 19 trang tạp chí, kèm theo 10 bức ảnh, 1 tấm bản đồ và 3 bức biểu đồ, đăng trên tờ The Mathematical Intelligencer (Người đưa tin toán học). Đây là tờ tạp chí của nhà xuất bản lớn bậc nhất thế giới về khoa học và kỹ thuật Springer - Verlag (mà bạn đọc chủ yếu là các nhà toán học chuyên nghiệp ở tất cả các nước). N. Koblitz đặt tên cho bài báo: Hồi ức về toán học ở một đất nước bị phong tỏa.

Tác giả dành phần lớn bài báo để kể tỉ mỉ về quê hương, dòng họ, thời niên thiếu, thanh niên cũng như quá trình học tập, sáng tạo của nhà toán học Hoàng Tuỵ mà nhiều kết quả trong lĩnh vực lý thuyết tối ưu toàn cục được coi là kinh điển, được thừa nhận rộng rãi ở Mỹ, châu Âu, Nhật Bản...
Bài báo lớn của một giáo sư toán học Mỹ làm cho tên tuổi Hoàng Tuỵ càng trở nên nổi tiếng trong giới toán học quốc tế. Cho đến lúc đó, ở nước ta, chưa hề có một bài báo nào bằng tiếng Việt viết về GS Tuỵ dài và sâu như thế!

Đó là một “luận cứ” khiến anh bạn tôi cho rằng “ông Tuỵ nổi tiếng ở nước ngoài có khi còn hơn ở trong nước!...”. Và còn nhiều “luận cứ” khác nữa.

Hội thảo quốc tế mừng thọ “cha đẻ của tối ưu toàn cục”

Hoàng Tuỵ sinh ngày 27/12/1927, vậy mà, ngay từ mấy tháng đầu năm 1997, giới toán học quốc tế trong chuyên ngành của ông đã sốt sắng chuẩn bị một hình thức đầy ý nghĩa mừng ông thọ 70 tuổi: tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế ở Thụy Điển.

Đầu năm 1997, tôi được anh bạn tiến sĩ khoa học kia đưa cho xem bản thông báo sau đây mà anh nhận được qua Internet:

“Nhân dịp mừng sinh nhật lần thứ 70 của GS Hoàng Tuỵ, người đã có công trình tiên phong trong lĩnh vực tối ưu toàn cục và quy hoạch toán học tổng quát, một cuộc hội thảo ba ngày sẽ được tổ chức tai Viện Công nghệ Linkoping, Thuỵ Điển với chủ đề: Tìm tối ưu từ địa phương đến toàn cục.”

Bản thông báo cho biết đây là cuộc hội thảo nhằm vinh danh GS Hoàng Tuỵ (Workshop in Honor of Prof. Hoang Tuy) diễn ra tại Thuỵ Điển từ ngày 20 đến 22/8/1997. Các nhà toán học muốn dự cần gửi bản tóm tắt công trình của mình chậm nhất vào ngày 1/6/1997 để kịp tập hợp in thành một cuốn sách đề tặng GS Hoàng Tuỵ (dedicated to Prof. Hoang Tuy).

Sau khi hội thảo kết thúc, cuốn sách được Kluwer Academic Publishers, cũng là một nhà xuất bản lớn về khoa học và kỹ thuật trên thế giới, ấn hành ở Boston (Mỹ), London (Anh), Dordrecht (Hà Lan) và nhiều nơi khác.

Năm 2007, mừng GS Hoàng Tuỵ 80 tuổi, giới toán học quốc tế lại tổ chức tại Pháp một cuộc hội thảo về tối ưu toàn cục để vinh danh ông một lần nữa.

Hoàng Tuỵ được coi là “cha đẻ của tối ưu toàn cục” (the father of Global Optimization). Ngày nay, bất cứ ai trên thế giới muốn đi vào chuyên ngành này, đều phải học những điều đã trở thành kinh điển như Tuy’s cut (lát cắt Tuỵ), Tuy-type algorithm (thuật toán kiểu Tuỵ), Tuy’s inconsistency condition (điều kiện không tương thích Tuỵ...

Cuốn sách toán tiếng Anh do GS Hoàng Tuỵ viết chung với GS Reiner Horst (CHLB Đức) nhan đề Global Optimization - Deterministic Approches (Tối ưu toàn cục - tiếp cận tất định) dày 694 trang, được nhà xuất bản Springer - Verlag in lần đầu năm 1990, lần thứ hai năm 1993, lần thứ ba (có sửa chữa) năm 1996.

Đây là cuốn sách chuyên khảo đầu tiên có hệ thống về chuyên ngành này. Do vậy, GS Hiroshi Konno, người Nhật Bản, mới nhận xét: Cuốn sách ấy “được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là cuốn Kinh thánh của chuyên ngành tối ưu toàn cục” (was appreciated by many researchers as the Bible of global optimization), và, trên thực tế, nhiều người bắt đầu các công trình nghiên cứu nghiêm túc của mình về tối ưu toàn cục là nhờ “được cuốn sách mở đường ấy cổ vũ” (motivated by this path-breaking book).

Cách đây mấy năm, tờ báo điện tử Operation-Research Bulletin (Bản tin Vận trù học), diễn đàn của các nhà vận trù học châu Á - Thái Bình Dương, số tháng 9/2002, đã ra một chuyên đề về GS Hoàng Tụy, gồm nhiều bài và ảnh: bài của TS Takahito Kuno phỏng vấn GS Hoàng Tuỵ; bài hồi ức của TS Taketomo Mitsui nhan đề Prof. Hoang Tuy - A Prominent Applied Mathematician (GS Hoàng Tuỵ - Nhà toán học ứng dụng lỗi lạc); bài hồi ức của GS Hiroshi Konno nhan đề A Tribute to Prof. Hoang Tuy (Để tỏ lòng tôn kính GS Hoàng Tuỵ); cùng một số bức ảnh GS Tuỵ chụp chung với các nhà toán học Nhật Bản, do TS Takahito Kuno chọn và giới thiệu dưới tiêu đề Santa Claus Coming from a Southern Country (Ông già Noel đến từ một đất nước phương nam). Chẳng là vì GS Tuỵ có mái tóc trắng như tuyết và cứ mỗi lần đến Nhật Bản lại mang tới cho các nhà toán học xứ sở hoa anh đào nhiều ý tưởng mới hấp dẫn như những món quà mà Ông già Noel mang lại. Qua số báo, các nhà toán học Nhật Bản muốn tỏ bày lòng ngưỡng mộ đối với nhà toán học Việt Nam lão thành.

Vượt Trường Sơn tầm sư học đạo


Đối với thế hệ trẻ trước đây và hôm nay, cuộc đời GS Hoàng Tụy luôn là một tấm gương sáng chói về lòng say mê khoa học, về ý chí kiên cường vượt qua mọi trở lực, khắc phục khó khăn để thực hiện cho kỳ được ước mơ tha thiết từ thuở thiếu thời.

Xuất thân từ dòng họ vị Phó bảng yêu nước Hoàng Diệu, ngay khi còn học trường làng ở Xuân Đài (Quảng Nam), cậu bé Tuỵ đã tỏ ra rất thông minh, học rất giỏi cả văn và toán. Ra Huế, vào Trường Quốc học, anh Tuỵ vẫn giỏi cả văn và toán. Nhưng, về sau, anh dành nhiều thời gian hơn cho môn toán vì bắt đầu mơ ước trở thành nhà toán học.

15 tuổi, anh mắc phải chứng tức ngực, khó thở, liệt một phần cơ thể, phải bỏ học hơn một năm ở Trường Quốc học Huế. Khi khỏi bệnh, không muốn lưu ban, anh đành ra học trường tư. Nhưng rồi anh “nhảy” hai lớp, “liều” thi tú tài toán. Nào ngờ chàng thư sinh “nhảy cóc” kia lại đỗ và, hơn nữa, đỗ... thủ khoa Trung Bộ!

Tháng 9/1946, anh ra Hà Nội học Đại học Khoa học lúc bấy giờ do GS Nguyễn Thúc Hào làm Quyền Giám đốc và trực tiếp giảng dạy môn toán. Nhưng rồi lính mũ đỏ gây hấn ở phố Hàng Bún; xe Jeep nhà binh Pháp lồng lộn trong đêm. Trước ngày tự vệ sao vuông thành Hoàng Diệu nổ súng đánh trả quân xâm lược, anh Tuỵ dạo khắp phố hè Hà Nội, tìm mua những cuốn sách toán bằng tiếng Pháp mang về quê ở Quảng Nam để tự học dần.

Năm 1951, đang dạy tại Trường trung học Lê Khiết trong vùng tự do liên khu 5, được tin GS Lê Văn Thiêm đã rời Thuỵ Sĩ trở về bưng biền Nam Bộ, và rồi ông đã đi bộ ra Việt Bắc, anh Tuỵ liền khẩn khoản đề nghị Sở Giáo dục cho phép anh ra Tuyên Quang thụ giáo thầy Thiêm.

Tuyến đường dọc Trường Sơn ngày ấy còn là một lối mòn nhỏ hẹp len lỏi giữa rừng sâu, xe cơ giới chưa thể qua lại như đường Hồ Chí Minh sau này. Thế nhưng đã được tổ chức rất tốt. Cứ mỗi chặng 30 kilômét lại có một trạm nghỉ đêm và hôm sau có giao liên dẫn đường cho cán bộ, bộ đội đi tiếp.

Trong balô, anh Tụy chỉ mang theo gạo, muối, sách toán, và thuốc. Quý nhất là quinakrine chữa sốt rét và vitamin B chống phù nề. Ăn cơm với muối, rau rừng. Ba mối nguy hiểm chết người lúc đó là: bị quân Pháp phục kích, bị hổ vồ, và bị sốt rét ác tính. Ở miệt U Bò, Ba Rền có “ông ba mươi” đã ăn thịt mấy chục anh cán bộ, bộ đội! Thế nhưng, ta không dám nổ súng bắn hổ vì sợ lộ, máy bay địch tới ném bom. Một anh đi cuối đoàn, tụt quai hậu dép lốp, dừng chân rút lại quai, thế là bị hổ vồ, tha vào rừng!...

Ròng rã nửa năm trời cuốc bộ, anh mới ra đến Tuyên Quang. Tới nơi thì GS Thiêm đã sang Trung Quốc! Thế là anh vượt biên giới Việt - Trung đi tiếp tới Khu Học xá trung ương lúc bấy giờ đóng nhờ trên đất Trung Quốc, tại ngoại thành Nam Ninh.

Hà Nội giải phóng. Anh trở về nước, giảng bài tại Trường Đại học Khoa học. Tháng 7/1957, anh được cử sang Liên Xô thực tập.

Chỉ sau hơn một năm đến Moskva, anh viết xong luận án tiến sĩ - quãng thời gian ngắn đáng ngạc nhiên đối với một người tự học chương trình đại học.

Nhưng anh đã không mãn nguyện với tấm bằng tiến sĩ cùng lèo tèo vài ba công trình đầu tay! Chính vì vậy mà ngày nay chúng ta mới có một nhà toán học lớn với hơn 130 công trình sâu sắc, bề thế, hầu hết được công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín cao.

Có thể nói, bên cạnh tư chất bẩm sinh thông minh vượt trội, thì ý chí sắt đá bất chấp mọi hiểm nguy, quyết vượt Trường Sơn tầm sư học đạo, coi học tập và nghiên cứu là lẽ sống đã giúp nhà toán học ấy đạt tới đỉnh cao vinh dự: Giải thưởng Hồ Chí Minh.

(Theo Bee.net)

Thứ Tư, 13 tháng 1, 2010

7 năm tạp chí Tin học - nhà trường

7 nam tap chi tin hoc nha truong thnt

Đây là CD tuyển tập toàn bộ bài viết trên tạp chí Tin học và Nhà trường trong 7 năm vừa qua, như một cuốn sách điện tử lớn:

  • Là công cụ học tập, tra cứu hiệu quả cho bạn đọc thông qua các bài viết có giá trị trong nhiều lĩnh vực Công nghệ thông tin.
  • Những gợi ý, thảo luận và lời giải cho các bài thi từ tất cả các kỳ thi Tin học trong và ngoài nước: HSG Quốc gia, Olympic Sinh viên, Tin học trẻ không chuyên…
  • Toàn bộ 87 số tạp chí từ lần phát hành đầu tiên tháng 10/1999 đến số 87, tháng 12/2006 được đóng gói trọn bộ chỉ trong một CDROM.
  • Hơn 1000 bài viết trải trên 3000 trang sách với 25 chuyên mục thông tin.
  • Hơn 280 đề ra kỳ này cùng với toàn bộ lời giải chi tiết cho đến số 87, tháng 12/20006.
  • Toàn bộ các đề thi IOI quốc tế từ năm đầu tiên 1989 cho đến năm 2006 với đề bài bằng tiếng Anh, tiếng Việt và lời giải chi tiết. Toàn bộ bài tập, lời giải của 47 kỳ thi Toán học quốc tế IMO từ năm đầu tiên 1959 đến năm 2006.
  • CDROM sẽ có giao diện thân thiện đẹp mắt. Nội dung các bài viết được sắp xếp theo thời gian, theo chủ đề tùy thuộc vào lựa chọn của người dùng. Các chức năng tìm kiếm nhanh theo chủ đề, theo tên tác giả hoặc theo từ khóa sẽ được cài đặt trong phần mềm. Tất cả nội dung các bài viết đều có thể xuất ra máy in hoặc sao chép thông tin sang các phần mềm khác nếu có nhu cầu.
Download ở đây: CD 7 years Infomatic and School magazine
(VnMath.Com)

Thứ Hai, 4 tháng 1, 2010

Nuôi ước mơ từ những tờ vé số

Hàng ngày, sau những buổi học trên lớp, chàng sinh viên ngành Bảo vệ thực vật, trường Đại học Nông lâm Huế Nguyễn Xuân Mỹ lại rong ruổi khắp các ngả đường của TP Huế trên chiếc xe đạp cọc cạch để bán vé số kiếm chút tiền trang trải cho bản thân.
Ước mơ từ những tờ vé số

Chàng sinh viên nghèo Nguyễn Xuân Mỹ đang bán những tờ vé số cho khách hàng.

Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo có 6 anh chị em ở làng Hương Cần (thuộc xã Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế), Nguyễn Xuân Mỹ trải qua tuổi thơ với nhiều vất vả. Hàng ngày, cứ sau buổi học tập trên lớp, Mỹ đều tranh thủ giúp đủ mọi công việc nhà. Cậu bạn tâm sự: “Trước đây, do gia đình quá khó khăn nên mình bị gián đoạn chuyện học một thời gian. Sau đó, lại tiếp tục được đến trường và quyết tâm thi vào trường ĐH Sư phạm, nhưng không thành. Tưởng chừng chuyện học đối với mình sẽ lại tiếp tục gián đoạn nữa…”.
Sau đó, Mỹ chuyển sang học ngành Quản lí đất đai tại trường CĐ Sư phạm Huế. Do nhà xa trường nên Mỹ phải thuê ở nhà trọ để thuận tiện cho việc học tập. Để tự trang trải cho bản thân trong những năm đại học, năm đầu Mỹ làm đủ việc từ bán cà phê, làm gia sư cho đến bán vé số. Mỹ tâm sự: “Lúc đầu chưa quen nên ngại lắm anh à. Có bữa đi mỏi cả chân, mệt cả người nhưng có bán được tờ nào đâu. Nhưng rồi dần cũng quen. Bây giờ em thường tranh thủ ngoài giờ học để la cà dọc các tuyến đường Hùng Vương, Bến Nghé bán vé số cho khách hàng”.
Với nghị lực phi thường của mình, chàng sinh viên Nguyễn Xuân Mỹ đã vượt qua những khó khăn để giờ đây có thể lo cho bản thân mà không cần đến hỗ trợ của gia đình. “Không làm thì lấy nguồn thu nhập nào để trang trải cho mình và em gái đây. Gia đình thì khó khăn, túng bấn hoài. Kiếm nguồn mô để chu cấp cho anh em mình mỗi tháng. Phải tự lực thôi…” - Mỹ cho biết thêm.
Tiếp tục nuôi ước mơ vào ĐH, Mỹ vừa học CĐ Sư phạm vừa làm thêm và tự ôn thi ở nhà. Một lúc phải thực hiện nhiều nhiệm vụ, áp lực ngày càng nhiều, không ít lần Mỹ đã định từ bỏ ước mơ. Nhưng nhờ có ý chí kiên cường với suy nghĩ “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, Mỹ đã cố gắng thu xếp mọi công việc và thời gian, vượt qua khó khăn để hôm nay vững bước trên giảng ĐH.
Mỹ càng vui hơn khi hay tin cô em gái Nguyễn Thị Thùy Trang trúng tuyển nguyện vọng 2 ngành Hán - Nôm của Trường ĐH Khoa học Huế. Vậy là cuối cùng ước nguyện của cha mẹ vào 2 anh em Mỹ đã trở thành hiện thực. Ngày hay được tin cả 2 anh em Mỹ cùng đậu vào trường ĐH, cha mẹ vừa mừng vừa lo.
Bước vào năm học mới ở giảng đường ĐH, Mỹ đã “tận dụng” số tiền mà mình đã tích cóp từ suốt 2 năm qua để lo cho cô em gái. Mặc dù số tiền không lớn nhưng với Mỹ, đó là tất cả niềm vui và tự hào mà cậu đã bỏ công sức để làm ra. Hiểu cho hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mỹ đã từ chối nhận số tiền ít ỏi mà bố mẹ dành dụm gửi cho 2 anh em. Mỹ bảo: “Nhà đã nghèo rồi, bố mẹ lại làm nông thì lấy đâu có tiền nhiều. Mình tự làm như vầy, nhiều hôm may mắn cũng kiếm được vài chục ngàn để mà tự trang trải”.


Ước mơ từ những tờ vé số

Chiếc xe đạp cọc cạch cùng Nguyễn Xuân Mỹ đi khắp các nẻo đường của TP Huế bán những tờ vé số.

Công việc đi bán vé số dạo của Mỹ bắt đầu từ buổi trưa, sau khi đã chuẩn bị xong cơm nước. Mỗi lần như vậy, Mỹ phải rảo khắp các quán nhậu, quán cà phê ven đường. Rong ruổi cuốc bộ cả hàng chục cây số, có khi đến 10-11 giờ khuya Mỹ mới về nhà, rồi lúc ấy mới chuẩn bị bài vở cho ngày tiếp theo. “Mệt thì có mệt nhưng mà vui anh à. Có hôm trời mưa, cả người ướt đẫm nhưng em cố giữ không để cho ướt những tờ vé số. Đó là cả cuộc sống của hai anh em…”- Mỹ cho biết thêm.
Nhìn Nguyễn Xuân Mỹ với chiếc xe đạp cọc cạch mua được bằng số tiền tích cóp khi bán vé số, chúng tôi không khỏi khâm phục chàng sinh viên nghèo có nghị lực phi thường và ý chí quyết tâm theo đuổi ước mơ. Chia tay Mỹ khi trời xứ Huế đã về khuya, chúng tôi thầm cầu chúc cho em có một tương lai tươi sáng được vun đúc lên từ những tờ vé số.
Dân Trí

Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2010

Giáo dục toàn diện hay ôm đồm?

Việc thay đổi cách dạy và cách học ở bậc phổ thông là cần thiết nhưng sẽ không thực hiện được nếu như chương trình học vẫn còn quá nặng như hiện nay.

Sao tiếp thu nổi khái niệm triết học?

Chương trình ở bậc THPT được thiết kế quá nhiều môn học trong cùng một thời gian (hằng tuần đều có 13 môn học) làm cho học sinh rất căng thẳng và mệt mỏi. Cũng vì thế làm nảy sinh môn chính, môn phụ là điều không tránh khỏi.

Ấy thế mà còn có ý định đưa vào chương trình nhiều nội dung hơn nữa như: Chống tham nhũng, giáo dục giới tính, luật giao thông, bảo vệ môi trường, thậm chí còn đưa vào trò chơi dân gian... Có lẽ cần phải quan niệm lại thế nào là giáo dục toàn diện.

Theo tôi, cần phải có thái độ thực tế hơn để mạnh dạn cắt bỏ chương trình của từng bộ môn và cắt bỏ cả những môn học không cần thiết.

Để lấy làm một ví dụ, tôi xin nêu chương trình môn giáo dục công dân. Lớp 10 có 35 tiết với các nội dung trong học kỳ 1 như sau: Thế giới quan duy vật, biện chứng pháp; vật chất và tồn tại khách quan; sự vận động và phát triển của thế giới vật chất; nguồn gốc và cách thức vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng; khuynh hướng phát triển; thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức; tồn tại xã hội và ý thức xã hội; con người là chủ thể xã hội và là mục tiêu phát triển xã hội...

GS Van Nhu Cuong: Giao duc toan dien hay om dom
Việc thay đổi cách dạy và học khó thực hiện vì chương trình học còn nặng. Ảnh: N. HỮU

Có người nói vui là giống như chương trình lý luận chính trị. Điều khó hiểu là làm sao một đứa trẻ 15 tuổi lại có thể học được, tiếp thu được các khái niệm triết học rối rắm đến như thế. Học những điều ấy trong môn giáo dục công dân thì có lợi gì?

Tôi cho rằng các nội dung đó hoàn toàn không cần thiết, nên bỏ hẳn và thay bằng giáo dục những kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi 15 (như biết chăm sóc bản thân, giao tiếp với mọi người, biết kính trọng ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, biết sống thân thiện với bạn bè, quan tâm đến môi trường, không vi phạm pháp luật, thực hiện tốt nội quy nhà trường...).

Đề nghị bỏ 4 môn học

Ví dụ thứ hai là môn toán (hình học và đại số) của ban cơ bản có 3 tiết/tuần. Với chỉ 3 tiết/tuần thì thầy trò chỉ có cách “dạy nhồi” và “học nhét” mà thôi. Có thể nói không có nước nào trên thế giới chỉ học 3 tiết toán/tuần. Tôi được nghe nhiều ý kiến của các thầy cô giáo nói rằng với chương trình ấy, sách giáo khoa ấy, nếu có 5 tiết toán/tuần thì có thể dạy được, học được.

Vấn đề ở đây không phải là nội dung kiến thức quá khó, quá cao siêu mà là vì thời lượng quá ít. Không thể tăng thời lượng lên được (vì chỉ học một buổi/ngày) nên chỉ có cách cắt bớt chương trình. Có thể mạnh dạn bỏ hẳn nhiều bài, thậm chí nhiều chương sao cho chỉ còn lại hơn một nửa của nội dung chương trình.

Phải trên cơ sở sách giáo khoa hiện có mà nghiên cứu việc cắt bỏ cho khoa học, theo phương châm “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

Việc thứ hai là cắt bỏ bớt các môn học. Hiện nay, bậc THPT có 13 môn học và 4 hoạt động giáo dục (cũng là môn học) là quá nhiều, trong khi đại đa số các nước chỉ có 6 đến 8 môn mà thôi.

Tôi đề nghị bỏ các môn học sau đây: môn công nghệ, môn giáo dục quốc phòng và an ninh, hoạt động giáo dục nghề phổ thông, hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Có ba môn học cần được học cả 3 năm lớp 10, 11 và 12 là toán, tiếng Việt, ngoại ngữ; còn các môn học khác như hóa học, vật lý, sinh học, tin học, lịch sử, địa lý có thể bố trí dạy hai, ba hoặc bốn học kỳ.

Như vậy, trong học kỳ này đã học hóa thì không học lý, đã học sử thì không học địa. Môn học nào kết thúc thì làm bài thi bộ môn và dùng kết quả thi đó để xét tốt nghiệp.
GS Văn Như Cương (Hiệu trưởng Trường THPT Lương Thế Vinh), NLĐ.

Bài đăng phổ biến