Hiển thị các bài đăng có nhãn Quân sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quân sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2011

Tạp chí Bộ Ngoại giao Trung Quốc đánh giá về chiến lược và sức mạnh quân sự của Việt Nam

Theo Tạp chí “Tri thức thế giới” của Bộ Ngoại giao Trung Quốc số 15, trong những năm gần đây thực lực quân sự của Việt Nam đã được nâng lên một cách vững chắc, quân số đông và tác phong ngoan cường, xét về sức chiến đấu và sức mạnh tổng hợp đều đứng đầu các nước Đông Nam Á

Thời gian gần đây, Việt Nam có rất nhiều động thái ở Biển Đông: Vào cuối tháng 5 Việt Nam chỉ trích tàu cá Trung Quốc cắt cáp của tàu thăm dò dầu khí của họ ở Biển Đông, dân chúng Việt Nam liên tục trong nhiều tuần biểu tình chống Trung Quốc. Ngày 9/6, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố phải bảo vệ vùng biển và các đảo của Việt Nam bằng sức mạnh của toàn đảng, toàn quân và toàn dân. Ngày 13/6, Hải quân Việt Nam hai lần tổ chức diễn tập bắn đạn thật ở vùng Biển Đông, sau đó lại công bố lệnh huy động nhập ngũ. Ngày 15/7, Việt Nam và Mỹ bắt đầu tổ chức diễn tập liên hợp trong một tuần ở vùng biển gần Đà Nẵng. Để củng cố lợi ích đã có của mình ở Biển Đông, Việt Nam một mặt dựa vào sức mạnh của ASEAN và cơ hội thuận lợi Mỹ “trở lại Đông Nam Á” để đẩy mạnh ASEAN hóa và quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, mặt khác cũng thiết thực tăng cường bố trí quân sự và hiện đại hóa quân đội ở Biển Đông.

I - Thực lực quân sự đứng đầu Đông Nam Á

Những năm gần đây, thực lực quân sự của Việt Nam được nâng lên một cách vững chắc, quân số đông và tác phong ngoan cường, xét về sức chiến đấu và sức mạnh tổng hợp đều đứng đầu các nước Đông Nam Á.

Lực lượng vũ trang của Việt Nam chủ yếu bao gồm quân đội nhân dân và dân quân tự vệ, còn có cả cảnh sát biển và công an nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập năm 1944, lúc đầu chỉ có 34 người, gọi là “Đội tuyên truyền giải phóng quân” Việt Nam, trải qua các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và giải phóng miền Nam, đến nay quy mô và sức mạnh chiến đấu không ngừng lớn mạnh. Theo “Sách Trắng Quốc phòng” công bố năm 2009 của Việt Nam, hiện nay lực lượng thường trực của quân đội Việt Nam (bao gồm cả bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương) có tổng cộng 450 nghìn người, lực lượng dự bị khoảng 5 triệu người. Bộ đội chủ lực là thành phần cốt cán của quân đội nhân dân Việt Nam , bao gồm lục quân, hải quân, phòng không không quân, bộ đội biên phòng.

Lục quân Việt Nam hiện chia thành 8 Quân khu, một số Quân đoàn, Sư đoàn bộ binh, Lữ đoàn tăng thiết giáp, Lữ đoàn tác chiến đặc chủng, Lữ đoàn pháo binh dã chiến, Sư đoàn công binh, Sư đoàn xây dựng kinh tế. Trang bị vũ khí chủ yếu gồm có 850 xe tăng chiến đấu chủ lực T-54/55, 300 xe tăng hạng nhẹ PT-76, 100 xe trinh sát thiết giáp BRDM-1/2, 300 xe chiến đấu bộ binh BMP-1/2, 1.100 xe thiết giáp chở quân BTR-40/50/60/152, khoảng 2.300 cỗ pháo kéo xe và một số dàn phóng tên lửa, pháo cao xạ, pháo tự hành, tên lửa chống tăng và tên lửa đất đối không.

Hải quân Việt Nam thành lập năm 1955, hiện biên chế thành 4 vùng hải quân ven biển, trang bị chủ yếu gồm hai tàu ngầm mini mua của Bắc Triều Tiên năm 1977, 6 tàu hộ vệ, 2 tàu hộ vệ hạng nhẹ “Cheetah”, 37 tàu tuần tra và một số tàu rà quét thủy lôi, tàu đổ bộ và tàu tiếp tế hậu cần.

Phòng không không quân Việt Nam thành lập năm 1963, được sáp nhập từ Bộ Tư lệnh phòng không và Cục không quân, hiện được biên chế thành một số Sư đoàn phòng không và Sư đoàn không quân, bên dưới có Trung đoàn máy bay tấn công, Trung đoàn máy bay tiêm kích, Trung đoàn máy bay vận tải, Trung đoàn pháo cao xạ, Trung đoàn rađa. Trang bị chủ yếu gồm có 140 máy bay MiG-21, 7 máy bay SU-27SK, 4 máy bay SU-30MKK, 53 máy bay SU-22, 4 máy bay chống tàu ngầm Be –12, 26 trực thăng chống tăng MiG-24, 10 trực thăng chống tàu ngầm Ka-28 và một số máy bay huấn luyện, tên lửa không đối không, không đối đất, đất đối không.

Bộ đội biên phòng Việt Nam thành lập năm 1959, có chức năng cơ bản là thực hiện quản lý biên giới quốc gia, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ biên giới trên bộ, hải đảo, vùng biển và trật tự an ninh ở khu vực cửa khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Ngoài quân đội nhân dân, dân quân tự vệ Việt Nam cũng là bộ phận cấu thành chủ yếu của lực lượng vũ trang Việt Nam. Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng vẫn ở vị trí sản xuất và công tác, thời bình là lực lượng lao động sản xuất chính, thời chiến là lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân. Dân quân tự vệ chủ yếu thuộc các loại hình bộ binh, phòng không, pháo binh, công binh, trinh sát, giao thông, phòng chống hóa học, điều trị y tế và dân quân tự vệ trên biển, trong đó dân quân tự vệ trên biển mới được thành lập từ năm 2009 nhằm đối phó với những đe dọa an ninh trên biển.

Việt Nam còn có lực lượng cảnh sát biển, thành lập năm 1998. Vì thế, Việt Nam hiện nay có ba bộ phận lực lượng vũ trang trên biển là hải quân, cảnh sát biển và dân quân tự vệ biển, cho thấy Việt Nam hết sức coi trọng an ninh trên biển.

II - Chú trọng Biển Đông, đẩy nhanh hiện đại hóa hải quân không quân

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Việt Nam đã bắt đầu tiến trình hiện đại hóa quân đội. Sau sự kiện khủng bố ngày 11/9, nhất là từ khi Mỹ phát động cuộc chiến tranh cục bộ kỹ thuật cao đối với Irắc, Việt Nam đã ý thức được rằng hình thái chiến tranh trong tương lai sẽ có thay đổi to lớn, vũ khí trang bị truyền thống và dạng thức tác chiến truyền thống đã không thể thích hợp với yêu cầu chiến tranh trong tương lai.

Mục tiêu tổng thể trong xây dựng quân đội của Việt Nam là “Cách mạng hóa, chính quy hóa, tinh nhuệ hóa và từng bước hiện đại hóa”. Vì thế Việt Nam đã mở rộng chi phí quốc phòng, từ chỗ chú trọng xây dựng quy mô chuyển sang xây dựng chất lượng quân đội, chú trọng nguyên tắc phát triển phối hợp giữa các quân binh chủng và ưu tiên phát triển hải quân - không quân, đồng thời tiếp tục tăng cường xây dựng lực lượng dự bị như dân quân tự vệ.

Bước vào thế kỷ mới, Việt Nam đặc biệt chú trọng ảnh hưởng của tranh chấp chủ quyền và lợi ích biển ở Biển Đông đối với an ninh quốc gia. Sau Đại hội lần thứ 9 Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam bắt đầu thực hiện phương châm chiến lược “thu hẹp lục quân mở rộng hải quân”, coi việc bảo vệ lãnh thổ trên biển và tài nguyên biển là trọng tâm của chiến lược quân sự mới, tăng cường một cách có trọng điểm khu vực ven biển miền Trung Nam Bộ và bố trí binh lực ở các đảo mà Việt Nam đã chiếm, làm nổi bật nhiệm vụ xây dựng hải quân và không quân. Năm 2001, Việt Nam đã cho ra đời “Kế hoạch hiện đại hóa lực lượng vũ trang thế kỷ mới”, đề xuất thay đổi toàn diện vũ khí trang thiết bị của ba quân chủng lục quân, hải quân và không quân, trọng tâm là ưu tiên đảm bảo hiện đại hóa phòng không không quân và hải quân, đồng thời lắp đặt các loại trang thiết bị cảnh báo, trinh sát, chỉ huy, cơ động và đảm bảo cung cấp hậu cần. “Sách Trắng Quốc phòng” năm 2009 của Việt Nam cũng nhiều lần nhấn mạnh phải xây dựng quân đội hiện đại hóa có trang bị vũ khí tiên tiến, trong khi tự nghiên cứu chế tạo, liên hợp sản xuất trang thiết bị, đồng thời mua sắm khối lượng lớn vũ khí trang thiết bị tiên tiến của nước ngoài, nâng cao tính năng vũ khí trang thiết bị của bản thân, trong đó mua sắm vũ khí trang thiết bị cho hải quân và phòng không không quân đã chiếm tỉ lệ rất lớn.

Cuối năm 2003, Việt Nam đã đặt mua của Nga 4 máy bay chiến đấu SU-30MK đa tính năng. Đồng thời không quân Việt Nam đã hợp tác với Ixraen và Nga cải tiến hệ thống rađa của máy bay MiG-21, lắp đặt trên máy bay thiết bị trinh sát chụp ảnh ban đêm. Năm 2005, Việt Nam lại đặt mua hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU1 trang bị cho một số đại đội pháo binh. Không quân Việt Nam còn mua máy phản lực huấn luyện L-39C/máy bay tấn công hạng nhẹ của Séc, nhập khẩu một bộ phận máy bay luấn luyện KT-1, T-50 của Hàn Quốc và Ba Lan. Tháng 3/2005, Việt Nam và Ba Lan đã ký Hiệp định mua vũ khí trị giá 150 triệu USD, mua 12 chiếc máy bay tuần tra trên biển M-28, 4 máy bay trực thăng cứu hộ trên biển W-3RM và 8 hệ thống trinh sát trên biển MSC-400 của Ba Lan. Năm 2009, Việt Nam lại ký hiệp định với Nga, mua của Nga 12 máy bay chiến đấu đa chức năng SU-30MK2.

Để thích ứng với yêu cầu đặt ra trong tương lai, Hải quân Việt Nam đã có kế hoạch phát triển ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, hy vọng đến trước năm 2015 sẽ hoàn thành đổi mới trang thiết bị, để hải quân Việt Nam trở thành một lực lượng hải quân trên biển hiện đại có đầy đủ các binh chủng, có khả năng tác chiến cơ động và khả năng tấn công hỏa lực tầm xa tương đối mạnh, đến trước năm 2050 sẽ hình thành một lực lượng tác chiến đa chiều độc lập ở biển xa. Từ năm 1995 đến nay, Hải quân Việt Nam đã lần lượt đặt mua hơn 10 chiếc tàu chiến mang tên lửa có tên “Poisonous spider” của Nga, 12 chiếc tàu tuần tra của Thụy Điển, 2 tàu ngầm mini của Bắc Triều Tiên. Sau năm 2000, Việt Nam bắt đầu mua tàu mặt nước cỡ lớn của nước ngoài. Năm 2003, Việt Nam đã ký hiệp định trị giá 120 triệu USD với Nga, có kế hoạch mua của Nga 12 chiếc tàu chiến tốc độ cao mang tên lửa có tên “Lightning”. Việt Nam còn mua các loại tàu tấn công/tuần tra tốc độ cao của Hàn Quốc có các tên “Dolphin”/ “Wildcat”; mua của Ba Lan 4 tàu hộ vệ hạng nhẹ “Miners”, 1 tàu huấn luyện “Nick Ward”, 8 tàu tuần tra bờ biển “Pilica”, và một tàu tuần tra cỡ lớn “Aubrey Lutz” đã cải tiến. Năm 2007, Việt Nam lại mua của Nga 2 tàu hộ vệ “Cheetah” và một hệ thống tên lửa chống hạm trên bờ mới nhất để lắp ráp tên lửa hành trình chống hạm có tốc độ siêu âm "Ruby". Để khắc phục những bất cập về năng lực tác chiến dưới nước, năm 2009, Việt Nam đã ký một hợp đồng lớn với Nga, mua 6 chiếc tàu tàu ngầm lớp “KILO” chạy bằng động cơ diezen trị giá 1,8 tỉ USD, đồng thời chuẩn bị thành lập lực lượng tàu ngầm.

III - Tăng cường hợp tác quân sự với Mỹ-Ấn Độ là có ý đồ ở Biển Đông

Trong tiến trình thúc đẩy hiện đại hóa quân đội, Việt Nam có một biện pháp quan trọng là tích cực tăng cường quan hệ quân sự với các nước, trong đó hợp tác quân sự giữa Việt Nam với Mỹ và Ấn Độ là đặc biệt đáng quan tâm, vì đây cũng là một bộ phận của chiến lược quốc tế hóa vấn đề Biển Đông của Việt Nam, được thể hiện ở ý đồ “liên Mỹ”, “liên Ấn” để kiềm chế Trung Quốc.

Tháng 3/2000, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lúc đó là Cohen đi thăm Việt Nam, trở thành Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đầu tiên đến thăm Việt Nam sau 25 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam, đánh dấu việc khởi động quan hệ quân sự Việt-Mỹ. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống Bush (con), Mỹ đã mở rộng giao lưu quân sự với Việt Nam, các chuyến thăm cấp cao giữa hai bên diễn ra liên tục, tàu quân sự hai nước thường xuyên đi thăm lẫn nhau, lại còn đi đến hiệp định hợp tác trong các lĩnh vực đào tạo ngoại ngữ, y học quân sự... Sau khi Obama lên nắm quyền, quan hệ quân sự Việt-Mỹ tiến thêm một bước mật thiết hơn. Năm 2010, Mỹ và Việt Nam lần đầu tiên tổ chức giao lưu phòng vệ cấp thứ trưởng quốc phòng, tàu sân bay USS George Washington và tàu khu trục mang tên lửa USS John S. McCain của Mỹ đến thăm Việt Nam cập cảng Đà Nẵng. Việt Nam còn diễn tập quân sự chung với Mỹ ở Biển Đông. Ngoài hy vọng được Mỹ viện trợ quân sự và đẩy nhanh hiện đại hóa quân sự, việc Việt Nam tăng cường quan hệ quân sự với Mỹ còn có một nguyên nhân rất quan trọng khác là kéo Mỹ vào, làm tăng thêm sức nặng đối đầu với Trung Quốc, quốc tế hóa vấn đề Biển Đông trong bối cảnh tranh chấp Biển Đông ngày một nổi lên rõ hơn.

Những năm gần đây, hợp tác quân sự giữa Việt Nam và Ấn Độ cũng không ngừng mở rộng. Tháng 3/2000, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Fernandez đi thăm Việt Nam, ký “Hiệp định hợp tác phòng vệ” giữa hai nước, quyết định tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực trao đổi tình báo, đóng tàu hải quân, chống cướp biển. Để thực hiện các nội dung hữu quan, tháng 10 năm đó hai nước còn tổ chức diễn tập quân sự chung ở Biển Đông. Ngoài ra, hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ về kỹ thuật công nghiệp quân sự cũng không ngừng gia tăng. Nhà máy công nghiệp quân sự Nasik của Ấn Độ đã giúp Việt Nam cải tiến khoảng 200 máy bay chiến đấu MiG-21 đang trong chế độ quân dịch. Ấn Độ còn quyết định cung cấp cho Việt Nam các bộ linh kiện dùng để kiểm tra sửa chữa máy bay chiến đấu MiG và nâng cấp máy bay chiến đấu SU-27. Cung cách Việt Nam tăng cường quan hệ quân sự với Mỹ và Ấn Độ, lôi kéo các nước lớn can thiệp tranh chấp trong vấn đề Biển Đông sẽ khiến cho vấn đề Biển Đông phức tạp thêm một bước./. 

Theo Tạp chí “Tri thức thế giới” (Trung Quốc)

Hương Trà (gt)

Nguồn: nghiencuubiendong.vn

Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011

Hải quân VN có đủ sức đối đầu TQ?

Mới đây, Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam nói rằng trong vòng 6 năm nữa Việt Nam sẽ có một hạm đội tàu ngầm để bảo vệ, Việt Nam cũng sẽ mua thêm máy bay tên lửa để nâng cao khả năng tự vệ của mình.

Danh sách vũ khí quân sự VN đặt mua tử Nga: 6 tàu ngầm Kilo và 12 máy bay SU 30 Sukhoi

Trước một Trung Quốc đang gia tăng hiện đại hóa quốc phòng ngày một nhiều và đặc biệt là lực lượng hải quân, liệu Việt Nam có đủ sức đương đầu với những tấn công từ Trung Quốc nếu có thể xảy ra, bảo vệ chủ quyền trên biển của mình?

Việt Hà phỏng vấn giáo sư Carl Thayer, chuyên gia Đông Nam Á, thuộc Học viện Quốc phòng Canberra, Úc về vấn đề này.

Điểm yếu của TQ

Trước hết đánh giá về thực lực của hải quân Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền trên biển và lãnh thổ của mình, giáo sư Carl Thayer nói:
Việt Nam đã lựa chọn khá thành công chiến lược ngăn chống xâm nhập lãnh hải. Tàu ngầm Kilo là loại tàu quy ước và là loại cực kỳ êm nhẹ, không gây tiếng động, mà Trung Quốc thì yếu kém trong chiến thuật chống tàu ngầm. Một khi các tàu này đi vào hoạt động, bất kỳ lúc nào Trung Quốc đưa tàu chiến xuống vùng đòi chủ quyền của Việt Nam thì họ cũng phải tính đến một thực tế là tàu ngầm của Việt Nam đang phục kích đâu đó và có thể ngăn cản được Trung Quốc. Trong trường hợp có những xung đột nhỏ thì Việt Nam có thể gây ra những tổn thất nặng nề cho Trung Quốc.

Việt Hà: Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam mới tuyên bố là trong vòng 6 năm nữa Việt Nam sẽ có một hạm đội tàu ngầm để bảo vệ chủ quyền của mình, ông đánh giá thế nào về khả năng này của Việt Nam trong vòng 6 năm tới trong tương quan lực lượng với hải quân Trung quốc?

Carl Thayer: 6 tàu ngầm mà Việt Nam mua sẽ không hoạt động ngay cùng lúc, nhìn chung thường là bạn sẽ có một tàu ngoài biển, 1 đang được trang bị thêm, 1 đang trên đường quay lại khu vực tuần tiễu. Nhưng bạn cũng phải tính đến hệ thống rada trên đất liền, hệ thống rà soát khu vực mà Việt Nam đang mua ngày càng nhiều. Đó là loại máy bay SU 30 Sukhoi nhiều chức năng. Bằng cách phát triển các khả năng để dò biết được Trung Quốc đang ở đâu thì Việt Nam có thể tập trung lực lượng của mình ở đó.

Tàu ngầm Kilo là loại tàu quy ước và không gây tiếng động, mà Trung Quốc thì yếu kém trong chiến thuật chống tàu ngầm. Trong trường hợp có những xung đột nhỏ thì Việt Nam có thể gây ra những tổn thất nặng nề cho Trung Quốc.

Carl Thayer

Các hệ thống này không thể ngăn chặn được hoàn toàn việc Trung quốc xâm lược ở tất cả mọi nơi nhưng khi chúng ta nói đến tương lai khai thác dầu của Việt Nam thì Việt Nam hoàn toàn có thể bảo vệ được họat động này của mình. Việc có vũ khí ngăn chặn sẽ giúp Việt Nam tránh khỏi bị Trung Quốc bắt nạt. Trung Quốc sẽ phải cân nhắc kỹ lưỡng những phát triển mới này ở Việt Nam.
Tuy nhiên 6 năm tới thì cũng mới chỉ là bắt đầu bởi Việt nam phải mất một thời gian dài để học cách phối hợp và điều khiển các lực lượng này của mình. Sau 6 năm thì Trung Quốc sẽ phải tính kỹ lưỡng hơn trước khi có bất cứ hành động gì.

Thực lực của VN

Việt Hà: Một số các website về quốc phòng của Trung Quốc gần đây có nhận định rằng Việt Nam dù có hạm đội tàu ngầm nguy hiểm nhưng lại có một số hạn chế về nhân lực điều khiển các thiết bị mới cũng như thiếu các thiết bị khác như hệ thống thông tin hay hệ thống chỉ thị mục tiêu và dẫn đường tàu ngầm. Điều này sẽ hạn chế khả năng tác chiến của tàu ngầm, ông đánh giá thế nào về nhận xét này?

000_Hkg464025-250.jpg
Một thủy thủ Pháp trò chuyện với bộ đội biên phòng VN tại cảng Hải Phòng hôm 05/7/2007. Ảnh minh họa. AFP

Carl Thayer: Tất cả những điều đó đều đúng, tuy nhiên chúng ta không thể so sánh toàn bộ hải quân của Trung Quốc với hải quânViệt Nam, mà chúng ta phải so sánh các lực lượng nào mà Trung quốc sẽ sử dụng trong một trường hợp cụ thể. Ví dụ đó là để trừng phạt Việt Nam hay đe dọa Việt Nam. Và lực lượng đó sẽ phải hoạt động ở một dải mở rộng. Tàu Trung Quốc phải đi một đoạn đường dài đến Việt Nam và tàu ngầm  có thể ở bất cứ đâu và có thể gây thiệt hại cho Việt Nam. Nhưng Việt Nam thì không phải quá chậm trong việc học và đưa các công nghệ mới vào.

Chúng ta cũng nhớ là họ đã dùng hệ thống đánh máy bay từ thời Liên Xô cũ như thế nào để chống lại Mỹ. Cho nên chúng ta có thể nói về sự chênh lệch nhưng để nói rõ ý của tôi thì hãy so sánh Anh và Achentina trong cuộc chiến hai nước trước kia trên biển. Chỉ có vài tên lửa Achentina đã làm chìm tàu chiến của Anh. Mặc dù Anh thống trị ở đảo Falkland  nhưng vấn đề là mỗi khi họ gửi tầu chiến đến thì họ phải lo lắng về lực lượng không quân của đối phương.

Cho nên đối với trường hợp Trung Quốc, thì Trung Quốc phải lo lắng cả về tàu ngầm lẫn lực lượng không quân của Việt Nam, và đó là lực lượng đánh chặn. Tất nhiên là trong trận chiến hải quân một chọi một thì Trung Quốc có lực lượng hùng hậu hơn nhưng Việt Nam cũng không hẳn chỉ là phòng thủ, đó là ý tôi muốn nói.

Việt Hà: Trong một lần phỏng vấn trước ông có nói là quân đội Việt Nam bây giờ trang bị không bằng Thái lan, Malaysia, Singapore, mà chỉ hơn Cambuchia, Lào, liệu trong vòng 6 năm tới Việt nam với các trang bị quốc phòng mới, có thể hy vọng vượt lên ngang bằng các nước khác trong khu vực?

Tất nhiên là trong trận chiến hải quân một chọi một thì Trung Quốc có lực lượng hùng hậu hơn nhưng Việt Nam cũng không hẳn chỉ là phòng thủ, đó là ý tôi muốn nói.

Carl Thayer

Carl Thayer: Không có một ai trong khu vực có thể so sánh ngang hàng với Singapore được, đó là một cách biệt rất lớn về công nghệ. Việt Nam tất nhiên là hơn hẳn Lào, Cambuchia và thậm chí Philippines. Để so sánh được với Malaysia cũng rất khó vì kinh tế Malaysia phát triển hơn nhiều và có nhiều tàu chiến hơn. Theo tôi Việt Nam phải có một quyết định quan trọng ngay bây giờ. Việt Nam có lực lượng quân đội thường trực lớn, rất tốt trong tự vệ, nhưng phải tiêu tốn nhiều nguồn lợi, và lại muốn hiện đại hóa không quân, hải quân một lúc. Một quan chức quốc phòng Việt Nam đã viết về vấn đề này và có nói đến việc cắt giảm bộ binh để có tiền cho không quân và hải quân. Đây là một tiến triển tốt.

Tôi không nói là Việt Nam không thể hiện đại hóa quân đội và đạt đến mức độ đó, nhất là khi Việt Nam có quan hệ với nhiều cường quốc trên thế giới và khu vực, và học được kinh nghiệm từ đó. Cuối cùng chúng ta sẽ thấy Việt Nam có các cuộc diễn tập quân sự thật sự chứ không phải chỉ là những họat động đơn thuần như bây giờ, và bằng cách đó sẽ cải thiện khả năng của Việt Nam. Việt Nam sẽ theo dõi Trung Quốc đang làm gì và điều này sẽ thúc đẩy những gì Việt Nam đang làm.

Họ có liên hệ với 60 đến hơn 80 nước trên thế giới, trong khi đại hội đảng vừa rồi cũng có kêu gọi sự mở rộng quan hệ này. Theo tôi, chúng ta sẽ thấy Việt Nam sẽ chuyển theo hướng rất kiên quyết để hiện đại hóa quân đội. Việt Nam sẽ có thể vẫn chưa bằng Thái Lan, Malaysia nhưng có thể ở hạng 3 trong khu vực.

Kết hợp không quân và hải quân

Việt Hà: Với những trang bị quốc phòng mà Việt Nam đang gia tăng, liệu nếu một trận đụng độ với Trung Quốc tương tự như trận Trường Sa năm 1988 xảy ra thì Việt Nam có đủ sức đối đầu để bảo vệ các đảo của mình?

000_Hkg5203489-250.jpg
Tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc mua lại của Liên Xô cũ, đang neo đậu tại cảng Đại Liên, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc hôm 04/8/2011. AFP photo.

Carl Thayer: Cuộc đụng độ năm 1988 là khi Trung Quốc có lực lượng hùng hậu hơn nhiều và họ đã sử dụng các lực lượng này để giết quân Việt Nam, những người lính bị cô lập tại các đảo đá. Đó là một ví dụ khủng khiếp về sự cực đoan dân tộc của Trung Quốc. Việt Nam đã thách thức Trung Quốc trong nhiều năm và nhiều nơi, và họ đã phải chịu tổn thất, tôi nghĩ là Việt Nam sẽ cẩn thận hơn, tất nhiên khó mà nói được điều gì.

Cho đến lúc này Việt Nam có nhiều đảo ở biển Đông hơn Trung Quốc, gấp 3 lần, và làm sao có thể biết được một khi họ phát triển quan hệ với Mỹ và các nước khác nữa thì sẽ ra sao. Một khi mà hệ thống thông tin tình báo trao đổi phát triển thì họ sẽ biết trước được Trung Quốc định làm gì. Khi đối đầu trực tiếp thì Trung Quốc có tàu chiến hiện đại hơn và đó là đối đầu mà Việt Nam tìm mọi cách tránh, và đó là lý do mà tàu ngầm là khó nhìn thấy bởi các tàu chiến lớn như tàu của Malaysia vốn có thể thành một mục tiêu dễ thấy.

Với sự kết hợp của tàu ngầm và máy bay Sukhoi và cả tên lửa chống tàu từ đất liền được phát triển khá nhanh trong thời gian qua thì Việt Nam có thể chặn Trung Quốc khỏi những khu vực ưu tiên hàng đầu ngoài khơi.

Carl Thayer

Việt Nam đang ở hạng 3 về trang bị quốc phòng, với sự kết hợp của tàu ngầm và máy bay Sukhoi và cả tên lửa chống tàu từ đất liền được phát triển khá nhanh trong thời gian qua thì Việt Nam có thể chặn Trung Quốc khỏi những khu vực ưu tiên hàng đầu ngoài khơi, không phải là mọi nơi nhưng những nơi trọng yếu nhất.

Việt Hà: Xin cảm ơn ông đã dành cho đài chúng tôi buổi phỏng vấn này.

Nguồn: RFA

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2011

Những điều chưa biết về sức mạnh quân sự của Trung Quốc

Đứng thứ nhất trên thế giới về số quân thường trực, đứng thứ hai về kinh tế, thứ 3 về sức mạnh quân sự và đang không ngừng gia tăng sức mạnh này trong 2 thập niên trở lại đây.


Tàu ngầm hạt nhân JIN sử dụng tên lửa đạn đạo của TQ.

Đó là một trong những điều người ta biết về Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều người ta chưa biết hết về sức mạnh quân sự nước này. Quỳnh Chi tổng hợp và tường trình các thông tin liên quan về những điều biết và chưa biết về quân sự Bắc Kinh.

Ngân sách tăng không ngừng

Việc cách đây không lâu Bắc Kinh chính thức công nhận sự xuất hiện của hàng không mẫu hạm Thi Lang đã gây xôn xao trong dư luận. Thế nhưng, đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc gây quan ngại cho dư luận quốc tế về khả năng quân sự không rõ lý do của mình.
Trong buổi điều trần trước quốc hội Hoa Kỳ ngày 12 tháng 3 năm 2008, 2 tháng sau khi trở về từ chuyến viếng thăm Trung Quốc, Đô đốc Timothy Keating, Tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ cho biết cần để ý những gia tăng quân sự của Trung Quốc một cách cẩn thận. Cụ thể hơn, Đô đốc Timothy cho biết một trong những người đồng nhiệm Trung Quốc nói rằng

“Chúng tôi sắp xây dựng hàng không mẫu hạm. Các ông có thể lấy phần đông của Thái Bình Dương (từ Hawaii đến Mỹ). Chúng tôi sẽ lấy phần tây Thái Bình Dương, từ Hawaii đến Trung Quốc”
.
Việc mạnh dạn đề nghị chia đôi lợi ích tại Thái Bình Dương chứng tỏ Trung Quốc tự tin về những gì mình đang có, đặc biệt là kinh tế và quân sự.

Chúng tôi sắp xây dựng hàng không mẫu hạm. Các ông có thể lấy phần đông của Thái Bình Dương. Chúng tôi sẽ lấy phần tây Thái Bình Dương, từ Hawaii đến Trung Quốc.

Nhà quân sự TQ

Sự phát triển của hải quân TQ nhân kỷ niệm 60 năm QĐND/TQ
Sự phát triển của hải quân TQ nhân kỷ niệm 60 năm QĐND/TQ

Trước khi phát triển quân sự một nước, người ta thường phát triển kinh tế trước tiên bởi kinh tế là bệ phóng và nguồn lực của những hoạt động hiện đại hóa vũ khí và nâng cấp quân lực. Hiện tại, Trung Quốc chiếm vị trí thứ nhì thế giới về kinh tế với những chỉ số tăng trưởng ấn tượng vượt 10% vào năm ngoái.
Theo giáo sư tiến sĩ Marvin C. Ott, thuộc đại học John Hopkins, bắt đầu từ 20 năm trở lại đây, Trung Quốc đã gia tăng quân sự từ 13 đến 15% mỗi năm.
“Trung Quốc từ lâu đã đầu tư, phát triển khả năng quân sự cũng như tăng cường chi tiêu quốc phòng 30 năm nay, đặc biệt là 20 năm trở lại đây. Cách mà Trung Quốc tăng cường khả năng quân sự cũng rất cao và đáng chú ý”
Thực tế, theo báo cáo hàng năm vào năm ngoái của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, từ năm 1989, ngân sách quốc phòng Trung Quốc tăng gần 13% mỗi năm. Hồi tháng 3 năm nay, phát ngôn nhân quốc hội Trung Quốc Lý Triệu Tinh cho biết, ngân sách quốc phòng năm nay của nước này là 91,5 tỷ đô la.
Tuy nhiên, tờ USA Today số ra hôm 28 tháng 7 trích nguồn viện nghiên cứu American Enterprise cho biết con số thực sự có thể là 300 tỷ đô la. Với số tiền ấy và với lượng nhân công rẻ trong nước, Trung Quốc có thể làm được một khối lượng vũ khí khổng lồ.
Với việc du nhập, nâng cấp và sản xuất nhiều vũ khí, những năm gần đây, sức mạnh quân sự Bắc Kinh đã vươn lên những vị trí cao trên thế giới. Theo Global Fire Power, Trung Quốc đang đứng thứ 3 sau Hoa Kỳ và Nga so về sức mạnh quân sự. Năm ngoái, vị trí này của Trung Quốc là thứ nhì.
Chỉ trong vòng 2 thập niên trở lại đây, Trung Quốc đã kiến tạo được một lực lượng tàu ngầm và tàu đổ bộ lớn nhất Châu Á. Không quân Trung Quốc cũng được trang bị thêm hàng trăm máy bay chiến đấu có thể sánh  ngang với F-15s và F-16s của Hoa Kỳ.
Khi các loại tên lửa CM-802 AKG, máy bay chiến đấu đa năng Tiểu Long/FC-1, tên lửa vác vai và máy phóng rocket… được trưng bày tại Triển lãm Hàng không Chu Hải, Trung Quốc nổi lên như một đối thủ của các nước cung cấp vũ khí trên thế giới.

Tàu sân bay Thi Lang của Trung Quốc đang được tu sửa. AFP
Tàu sân bay Thi Lang của Trung Quốc đang được tu sửa. AFP

Đáng kể hơn, hồi tháng 1 đầu năm nay, khi bộ trưởng cựu Quốc phòng Robert Gates của Hoa Kỳ đến Bắc Kinh, Trung Quốc đã cho thử máy bay tàng hình đầu tiên J-20.
Theo một bản báo cáo mới ra tháng này của ông Dean Cheng, một chuyên gia về quân sự Trung Quốc tại tổ chức có tên Heritage Foundation, trong vòng mấy mươi năm trở lại đây, Trung Quốc tập trung phát triển không quân và hải quân thay vì chỉ tập trung vào bộ binh như trước đó.
Năm 2010, Trong Quốc trở thành nước đóng tàu lớn nhất thế giới với hai công ty đóng tàu nhà nước CSSC và CSIC với tổng số hơn 200 ngàn công nhân sản xuất ra các tàu dân dụng và quân đội. Theo website của CSSC, về mặt cấu trúc, đây là xương sườn hỗ trợ cho hải quân Trung Quốc.
Trung Quốc cũng không ngừng tăng cường các lực lượng quân sự nhằm đảo bảo lợi ích trên biển của nước này, bao gồm lực lượng: Fisheries Law Enforcement Command (FLEC), China Maritime Safety Administration (MSA), China Marine Surveillance (CMS) và China Coast Guard (CCG). Trong đó, FLEC và CMS có nhiệm vụ tuần tra tại các khu vực biển tranh chấp.
Mỗi  lực lượng được trang bị từ 10 đến 20 tàu nặng từ 1 đến 5 ngàn tấn. Đặc biệt, tàu thuộc lực lượng CCG nặng từ 130 đến 1.500 tấn, với nhiều chiếc có trang bị vũ khí.

Còn nhiều giới hạn

Tuy nhiên, song song với những điểm mạnh, quân sự Trung Quốc cũng có những giới hạn.

Loại hỏa tiễn chống hỏa tiễn cua TQ được trưng bày năm 2010. AFP

Loại hỏa tiễn chống hỏa tiễn cua TQ được trưng bày năm 2010. AFP

Giới quan sát cho rằng, Trung Quốc sẽ triển khai máy bay chiến đấu J-15 cho chiếc hàng không mẫu hạm Thi Lang. J-15 là một phiên bản của Su-33 dùng cho hàng không mẫu hạm Kuznetsov của Nga và cũng sẽ mắc các hạn chế tải trọng và tầm xa.
Chiếc Thi Lang không có dàn phóng may bay như các tàu sâu bay Hoa Kỳ và Pháp mà dùng một loại sàn cất cánh nâng cao để phóng máy bay nên sức mạnh sẽ kém đi.
Mặt khác, cũng như Su-33, J-15 của Trung Quốc cũng mắc khuyết điểm là không tuần tra xa được. Đó là lý do vì sao hàng không mẫu hạm Kuznetsov không có một vai trò lớn trong việc cân bằng thế mạnh hải quân ở Châu Âu và Thi Lang cũng không thể quan trọng hơn Kuznetsov.
Mặt khác, theo ông Nathan Hughes, giám đốc phân tích quân sự tổ chức STRATFOR, mặc dù có số quân chính thức đông đảo, nhưng quân đội Trung Quốc hiện nay có trình độ kỹ thuật khá thấp, đặt ra dấu hỏi về khả năng ứng dụng thiết bị.
Thêm vào đó, các chuyên gia cho rằng rất nhiều vũ khí chế tạo tại Trung Quốc lấy từ phiên bản của Nga mà Trung Quốc mua từ những năm 1980 nên mắc những lỗi lạc hậu hoặc dễ dàng bị vũ khí “đàn anh” khống chế.
Một điều đặc biệt nữa mà ít được nói đến về khả năng quân sự Trung Quốc. Theo ông Nathan Huges nếu kết hợp cả hải quân và không quân Trung Quốc, lực lượng này vẫn ít hơn lực lượng an ninh nội bộ của Bộ Quốc phòng. Điều này làm người ra cho rằng , những vấn đề Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ và nguy cơ bạo loạn trong nước (do những bức xúc về kinh tế, dân chủ, nhân quyền…) vẫn là những vấn đề đáng quan tâm nhất của Bắc Kinh, thay vì vấn đề biển Đông.
Trong khi Hoa Kỳ chỉ tăng ngân sách quốc phòng khoảng 4,4% một năm thì việc ngân sách quốc phòng Trung Quốc gia tăng 13% một năm là rất đáng quan ngại, giống như nhiều người quan ngại sự tăng trưởng quân sự Liên Xô  những năm 50-60.
Những phân tích trên cho thấy, mặc dù Trung Quốc gia tăng hiện đại hóa quân sự nhưng thế mạnh ấy vẫn còn những hạn chế nếu không muốn nói là chỉ ở giai đoạn bắt đầu. Chính vì thế, sự quan ngại dành cho Trung Quốc là để phòng ngừa chứ không phải quan ngại để đầu hàng.
Khi 2/3 thế giới là đạn dương, hạm đội trở thành sức mạnh thực sự của một nước. Hoa Kỳ mấy trăm năm nay đảm bảo được sức mạnh của mình cũng nhờ 7 hạm đội rãi rác khắp nơi. Đã có nhiều phát biểu cho rằng, một khi có hàng không mẫu hạm, bước kế tiếp của Trung Quốc là xây dựng hạm đội.
Và một khi người bạn láng giềng lớn mạnh, Việt Nam là nước bị ảnh hưởng nhiều nhất như ý kiến của giáo sư Marvin Ott đã nói:

“Đối với viện hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc, tất cả các nước trong khu vực đều nên quan tâm. Nhưng Việt Nam là nước sẽ bị ảnh hưởng lớn nhất. Một khi Trung Quốc tăng cường khả năng quân sự về hàng không hay về hải quân, thì Việt Nam sẽ gặp vấn đề về chiến lược”.

Bài đăng phổ biến